Tiểu luận So sánh cải cách giáo dục Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - Pdf 48

MỞ ĐẦU
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự giao lưu của
trí tuệ và tư tưởng thì nhân tố tri thức đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó thúc đẩy sự
phát triển năng động và nhanh chóng của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Đồng thời góp phần vào việc chiếm lĩnh nhiều vị trí tiên tiến nhất trong phát
triển khoa học công nghệ. Do đó chiến lược đầu tư vào phát triển giáo dục và đào tạo
rất được chú trọng , nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực, nâng cao dân trí và đào luyện
nhân tài. Chúng ta đã thấy rất rõ chiến lược phát triển giáo dục của các nước phát triển
đã đem lại những thành tựu hết sức to lớn. Chẳng hạn: Mỹ đã coi phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu. “Các trường đại học Mỹ là nơi quyết định sự thắng lợi của
công cuộc cạnh tranh kinh tế”. Nhật Bản đã coi giáo dục, khoa học và chính sách mở
cửa là 3 mũi nhọn chiến lược quyết định sự phát triển nhảy vọt của quốc gia này trong
mấy thập kỷ qua. Nam Triều Tiên, Malaisia, Thái Lan... cũng đã làm như vậy.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế phát triển còn thấp đang cần đổi mới để vươn
lên thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Đại hội lần thứ VII của Đảng CSVN đã đưa ra
những định hướng mới, quan trọng cho quá trình đổi mới đất nước. Trong đó, giáo
dục và đào tạo cũng được coi là một trong những quốc sách hàng đầu. Vì vậy, việc
nghiên cứu, học tập những kinh nghiệm của các nước trong khu vực về vấn đề này là
một nhiệm vụ bức thiết góp phần hoạch định những chính sách, những bước đi, những
cách làm giáo dục phù hợp với điều kiện, khả năng và nhu cầu phát triển đất nước,
nhằm nhanh chóng đưa nền giáo dục của ta phát triển hòa đồng với những xu thế
chung của khu vực và thế giới, phục vụ hữu hiệu nhất cho công cuộc đổi mới và phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Là người giáo viên, chúng ta cũng cần tiếp cận
những cải cách giáo dục của các nước, nắm được những đổi mới trong giáo dục phổ
thông ở Việt Nam . Trên cơ sở đó có những biện pháp đổi mới trong công tác giảng
dạy phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, bắt kịp với xu thế phát triển của xã
hội.


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Những cải cách giáo dục ở một số quốc gia

học sinh dù giỏi hay kém đều được theo học cùng một lớp. Các lớp học được bố trí
nhiều giáo viên đặc biệt có nhiệm vụ hỗ trợ các em và đảm bảo rằng không có học


sinh nào bị tụt lại. Kể từ đầu những năm 1990, bộ phận thanh tra giáo dục bị đóng cửa
hoàn toàn, chuyển trách nhiệm giải trình và kiểm tra cho các giáo viên và hiệu trưởng.
Hiện nay, ở bậc giáo dục cơ bản, Phần Lan không có bất kỳ một kỳ thi chuẩn hóa bắt
buộc nào, trừ một kỳ thi cuối năm lớp 9. Không hề có xếp hạng, so sánh hoặc cạnh
tranh giữa các học sinh, trường học hay khu vực. Các trường học tại Phần Lan được
tài trợ bởi chính phủ và được vận hành bởi các quan chức trong chính quyền, từ quan
chức cấp nhà nước đến viên chức địa phương, chứ không phải các doanh nhân, tướng
lĩnh quân đội hay chính trị gia. Mọi trường học đều có các mục tiêu quốc gia như
nhau và các mục tiêu này đều được xây dựng từ các chuyên gia giáo dục có chứng chỉ
ở các trường đại học.
Kết quả là, một học sinh Phần Lan dù đến từ thành thị hay nông thôn đều được hưởng
nền giáo dục như nhau. Khoảng cách giữa các học sinh giỏi nhất và yếu nhất ở nước
này là nhỏ nhất thế giới, theo một kết quả cuộc thăm dò của tổ chức OECD. “Bình
đẳng là từ quan trọng nhất trong nền giáo dục Phần Lan”, Chủ tịch Hiệp hội Giáo viên
Phần Lan Olli Luukkainen cho biết.
Ở Phần Lan, chính phủ cho phép các bà mẹ được nghỉ phép 3 năm sau khi sinh và trợ
cấp dịch vụ trông trẻ ban ngày cho các bậc cha mẹ. Khi những đứa trẻ lên 5 tuổi, các
em sẽ được đến trường mẫu giáo mà không phải đóng góp bất kỳ khoản tiền nào, ở
đây, trẻ em được tập trung vào việc vui chơi và tương tác xã hội. Các trường học cung
cấp đồ ăn, chăm sóc sức khỏe, tư vấn và dịch vụ taxi nếu học sinh cần. Chương trình
chăm sóc sức khỏe cũng được miễn phí với toàn bộ học sinh. Đối với các bậc phụ
huynh, trong một tháng họ sẽ nhận được khoảng 150 euro từ nguồn ngân sách nhà
nước để chăm sóc và nuôi nấng mỗi một người con cho đến khi chúng bước sang tuổi
17. Sau gần 40 năm kể từ khi chính phủ Phần Lan quyết định thực hiện kế hoạch táo
bạo khi chọn lĩnh vực cải cách giáo dục công lập để phục hồi kinh tế, vào năm 2000,
cộng đồng giáo dục quốc tế mới bất ngờ với những thành quả của giáo dục Phần Lan

quan trọng trong việc du nhập các lý luận giáo dục mới. Những chuyên gia người
nước ngoài này về sau dần được thay thế bằng các du học sinh Nhật Bản trở về từ Mỹ
và châu Âu.
Cải cách giáo dục thời hậu chiến (1945-1950)
Sau khi Thiên hoàng tuyên bố đầu hàng (15/8/1945), Nhật Bản bị quân Đồng minh
chiếm đóng. Dưới sự giám sát và tư vấn của Bộ tư lệnh tối cao quân đồng minh, Nhật
Bản đã tiến hành cải cách chính trị-xã hội-giáo dục toàn diện nhằm dân chủ hóa đất
nước.


Công cuộc cải cách giáo dục thời hậu chiến ở Nhật Bản có sự đóng góp to lớn của Sứ
đoàn giáo dục Mỹ đến Nhật vào tháng 3 năm 1946 (Sứ đoàn lần 1) và tháng 8 năm
1950 (Sứ đoàn lần 2).Trong đó Sứ đoàn giáo dục lần 1 do J.D.Stoddard làm trưởng
đoàn có vai trò lớn hơn cả. Bản báo cáo do Sứ đoàn giáo dục này đề ra đã có ảnh
hưởng lớn tới phương châm, đường lối cũng như cách thức thực hiện cải cách giáo
dục của Nhật Bản, góp phần tạo nên nước Nhật “hòa bình, dân chủ và tôn trọng con
người”. Trong bối cảnh phức tạp đương thời, sứ đoàn giáo dục đã tuyên bố rộng rãi sứ
mệnh của mình không phải là tiến hành cải cách ở Nhật Bản với tư cách là đại biểu
của nước chiến thắng mà chỉ đưa ra sự tư vấn cần thiết về cải cách giáo dục trong tư
cách là các nhà chuyên môn. Bản báo cáo được trình lên tướng Douglas MacArthur và
công bố ngày 30 tháng 3 năm 1946 gồm hai nội dung chủ yếu:
Nội dung thứ nhất là chỉ ra và phân tích những điểm yếu của nền giáo dục Nhật Bản
trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nội dung thứ hai là vạch ra triết lý,
phương châm của nền giáo dục mới. Về nền giáo dục hiện hành, bản báo cáo chỉ rõ 5
hạn chế lớn: hệ thống giáo dục bị trung ương tập quyền hóa một cách cao độ, hệ thống
trường học phức tạp, giáo dục nhồi nhét một chiều, hành chính quan liêu độc tài, quốc
ngữ-quốc tự không hiệu quả. Trên cơ sở chỉ ra và phân tích những điểm yếu nói trên,
bản báo cáo nêu ra các nguyên tắc giáo dục phù hợp với xã hội dân chủ. Ở đó, “Tôn
trọng giá trị cá nhân” và giáo dục người công dân dân chủ trở thành nền tảng triết lý
cơ bản.

đang phát triển muốn tiến hành cải cách giáo dục trong thời đại toàn cầu hóa.
1.3. Singapore
Giáo dục Singapore đi từ thấp lên cao theo 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn có một nhiệm
vụ cụ thể. Trong giai đoạn đầu (1959-1978), mục tiêu của ngành giáo dục là đào tạo
“công dân hữu ích, người tốt”. Trong giai đoạn 2 (1979-1996),Singapore tiến hành cải
cách giáo dục, dùng sách giáo khoa chất lượng cao, đa dạng hóa bậc phổ thông trung
học hướng tới đào tạo lực lượng lao động có tay nghề, sinh viên kỹ thuật và khoa học.
Giai đoạn này đã mang lại nhiều kết quả khả quan: học sinh bỏ lớp giảm còn 6%, số
học sinh thi đậu chứng chỉ “O Level” tiếng Anh (điều kiện để đăng ký vào các trường
bách khoa học lấy bằng chuyên ngành điện, điện tử, xây dựng, cơ khí, quản trị kinh
doanh…) đạt 90% năm 1984 và năm 1995, sinh viên Singapore luôn ở tốp đầu các kỳ
thi toán và khoa học thế giới.
Từ năm 1997 đến nay, giáo dục Singapore chuyển hướng mạnh, nhắm tới sáng tạo,
đổi mới và nghiên cứu. Hơn 1 triệu nhà khoa học, kỹ thuật và quản lý cao cấp người
nước ngoài được mời đến giảng dạy và nghiên cứu ở các trường đại học và viện
nghiên cứu Singapore.


Cũng trong giai đoạn này, Singapore thực thi tầm nhìn chiến lược “Thinking School,
Learning Nation” (Nhà trường tư duy, Quốc gia học tập) như một định hướng đổi mới
giáo dục. Vế đầu có nghĩa là nhà trường trở thành nơi phát huy tư duy sáng tạo, say
mê học tập cả đời và hun đúc tinh thần phục vụ đất nước. Trong vế thứ hai, học tập trở
thành văn hóa quốc gia, óc sáng tạo và đổi mới ăn sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Khi
triển khai tầm nhìn mới này đầu năm 1997, Thủ tướng Goh Chok Tong tin rằng “sư
thịnh vượng của Singapore trong thế kỷ XXI tùy thuộc vào khả năng học tập của toàn
dân”.
Năm 2004, trong bài diễn văn chào mừng Quốc khánh Singapore, thủ tướng Lý Hiển
Long còn đưa ra thêm một định hướng mới cho nền giáo dục Singapore: “Phải dạy ít
hơn để học sinh học được nhiều hơn”. Để đạt hiệu quả cao, Singapore dành 1/5 GDP
đầu tư vào giáo dục. Con số này hiện nay vẫn được duy trì.

Thống nhất hệ thống giáo dục không đồng bộ
Chính sách giáo dục của Đức không đồng bộ giữa các bang với nhau, mỗi bang có
quan điểm riêng của mình. Vấn đề bức thiết là lập ra một quy chuẩn chung thống nhất
cho toàn bộ hệ thống. Từ sau kết quả PISA năm 2000, Đức quyết định thay đổi toàn
bộ sách và chương trình giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy chú trọng tính tương tác cũng được áp dụng thay cho cách
học truyền thống trước đây. Việc nâng cao chất lượng giảng dạy cũng là một chìa
khóa thành công của cải cách giáo dục Đức.
Nhìn chung, quá trình để hoàn thiện hệ thống giáo dục vẫn còn ở phía trước nhưng
những thay đổi tích cực hiện tại của giáo dục Đức rất đáng ghi nhận và học tập. Đây
có thể coi là một ví dụ cải cách điển hình mang lại hiệu quả để các quốc gia khác có
thể tham khảo, học hỏi và áp dụng.
Thay đổi quan điểm giáo dục: không mang nặng thành tích
Sự thay đổi mạnh mẽ từ cải cách giáo dục Đức còn xuất phát từ cam kết miễn phí và
đảm bảo chất lượng giáo dục. So với các nước có học phí khá cao như Anh, học sinh
Đức hoàn toàn an tâm học tập mà không lo ngại các vấn đề khác. Ngoài ra, quan điểm
giáo dục không mang nặng thành tích, không gây áp lực cho giáo viên và học sinh,
theo đó giáo viên có thể phát huy khả năng sáng tạo của mình trong từng bài giảng mà
không bị bó buộc bởi thành tích.
Một điểm sáng của giáo dục Đức nữa là để trẻ phát triển tự nhiên, không thúc ép và
bên cạnh dạy kiến thức mà những gì họ đang thực hiện là đào tạo nên một con người
toàn diện.
1.5. Thuỵ Điển


Từ năm 1990 trở về trước, nền Giáo dục của Thụy Điển có tính chất tập trung nhất ở
Phương Tây. Bắt đầu từ năm 1991 Bộ Giáo dục Thụy Điển đã thực hiện cuộc cải cách
giáo dục từ mẫu giáo đến hết Trung học phổ thông theo chủ thuyết chỉ đạo: “Xây
dựng hệ thống kiến thức kết hợp với chuẩn bị lực lượng lao động trong nền kinh tế
toàn cầu”.

- Công bằng và miễn phí
Giáo dục Phần Lan xem công bằng là một trong những điều quan trọng nhất. Ông Olli
Luukkainen, chủ tịch hội đồng giáo viên Phần Lan chia sẻ “Tất cả trẻ em ở Phần Lan
dù thành thị hay nông thôn đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.”
Thực hiện tiêu chí công bằng này, giáo dục Phần Lan không phân biệt giàu hay nghèo,
thành thị hay nông thôn, tất cả đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.
-Không

áp lực thi cử

Giáo dục ở Phần Lan cũng không có các cuộc thi sát hạch nhằm phân loại học sinh,
giáo dục hướng đến các học sinh yếu kém, giúp nhà trường trở thành môi trường thân
thiện.
GS Pasi Sahlberg, công tác tại bộ giáo dục và văn hóa Phần Lan phát biểu: “Chúng
tôi dạy trẻ học cách HỌC, chứ KHÔNG dạy trẻ học cách để thi”
2.2. Giáo dục ở Nhật Bản
- Đạo đức là cốt lõi
Nhật Bản trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu chí “con
người = đạo đức”, đề cao tính tự lập và tinh thần kỷ luật.
Tư tưởng của người Nhật vẫn còn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của dân tộc
mình, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết đến đầu tiên.
Giáo dục Nhật Bản vận hành theo nguyên lý “mỗi người học sẽ trở thành một cá
nhân hoàn thiện đạo đức”.
Phương châm của người Nhật là “Cần phải nhắm tới thực hiện xã hội ở đó từng công
dân có thể mài giũa nhân cách bản thân…”.
-Tư

duy ‘tự lập’

Giáo dục Nhật Bạn cũng hướng đến tính tự lập cho học sinh, mỗi học sinh có thể tự

Dù du học Singapore ở bậc học nào, học sinh sinh viên cũng đều được giảng dạy theo
phương pháp khác biệt, chú trọng vào việc rèn luyện nhân cách, tư duy hơn là ép buộc
học viên theo một khuôn mẫu nhất định.
2.4. Giáo dục ở Đức
- Bình đẳng


Một trong những đặc tính của giáo dục Đức đó là tính bình đẳng giữa các học sinh,
trong lớp học không có lớp trưởng, lớp phó hay tổ trưởng, tổ phó, mà chỉ có “phát
ngôn viên” để chuyển thông điệp của thầy cô đến học sinh và ngược lại.
“Phát ngôn viên” còn đưa ra các giải pháp, phong trào nhằm cải thiện tình hình học
tập, giúp các bạn học lực yếu, phát huy các tài năng văn nghệ, thể thao trong lớp…
-

Chú trọng trải nghiệm thực tế
Người Đức cho rằng trói buộc những đứa trẻ trong lớp học mà thiếu tính trải nghiệm
thực tế sẽ dẫn đến những sản phẩm bị lỗi thời về mặt nội dung. Thầy cô đứng lớp còn
quan niệm phải mất cả năm trời, thậm chí là vài năm người ta mới có thể xuất bản một
quyển sách hạn hữu trong khi thế giới to lớn, vĩ đại đang vận động hàng giây. Thế nên
kiến thức sách vở, phần lớn đã lỗi thời trước khi được trưng bày trên kệ sách.
Hơn một nửa số học sinh ở Đức chọn con đường học nghề thay vì dấn thân vào con
đường đại học.
Người Đức quan niệm học tập để có một công việc phù hợp, thế nên trong khi một số
nước như Việt Nam xem những học sinh không vào được đại học sẽ không có cơ hội
phát triển, thì ở Đức người ta lại kỳ vọng rằng bộ phận học sinh này sẽ tỏa sáng khi
được ghép với một công việc phù hợp.

Đức đã xây dựng một chương trình giáo dục và đào tạo nghề nghiệp toàn quốc, được
quản lý bởi Viện Giáo dục và Đào tạo nghề nghiệp liên bang. Đây là một chương trình
phối hợp giữa chính phủ và giới doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để đào tạo nguồn

kiện, phương tiện vật chất về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có chất lượng giáo dục
cao.
- Việc cải cách và phát triển giáo dục đòi hỏi có tư duy sáng tạo; bởi vì bản thân giáo
dục đã mang tính chất sáng tạo, đổi mới, để đào tạo những con người thông minh sáng
tạo.
- Việc xây dựng giáo dục phải gắn liền với phát triển khoa học - công nghệ. Về vấn đề
này Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X (2006) đã khẳng định phải coi trọng
cả giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ. Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực phát triển công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.


- Cần phải đầu tư đúng mức các nguồn lực, đặc biệt chú trọng đến các trường sư
phạm, công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
- Tiến hành có hiệu quả xã hội hoá giáo dục một cách có hiệu quả và toàn diện.
- Coi trọng kinh nghiệm và xu thế quốc tế trong hội nhập thế giới về giáo dục song
phải giữ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực triển, được lựa chọn
những gì phù hợp nhất.
Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đang, chúng ta xác định nguyên tắc tiếp nhận
các bài học, kinh nghiệm của nước ngoài để xây dựng và phát triển giáo dục nước ta:
- Giữ vững mục tiêu giáo dục của nước ta, thực hiện có hiệu quả tốt nhất.
- Đảm bảo độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trên mọi lĩnh vực giáo dục.
- Trong xu thế toàn cầu hoá, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt hạn chế, nên cũng như
trong mọi lĩnh vực khác của hội nhập quốc tế, trên lĩnh vực giáo dục có mặt hợp tác
và đấu tranh.
- Vận dụng một cách linh hoạt, cụ thể vào điều kiện, yêu cầu của đất nước trên con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không rập khuôn, công thức, hời hợt. (2) Đảng
cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thưứX, NXB CTQG, Hà
Nội, 2006, tr.98. 3
- Phân tích kỹ những bài học kinh nghiệm của nước ngoài, trên cơ sở nắm vững tình

- Thường xuyên động viên, khuyến khích về tinh thần để giáo viên yên tâm công tác
và có hứng thú trong việc sáng tạo các hoạt động dạy học, khơi dậy, huy động mọi
tiềm năng của giáo viên để động viên, khuyến khích vươn lên.
4.4. Giải pháp thứ tư: Chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện phương pháp dạy học.
- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học: Đây là một quá trình khó khăn, có nhiều
nhiều lợi nhưng cũng có nhiều thách thức cần phải vượt qua. Do đó, phải tiến hành
theo một quy mô khoa học, từng bước đi cụ thể, chắc chắn mới thay đổi được và đem
lại hiệu quả cao về chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học cần phải đổi
mới quan niệm về dạy học của người dạy và người học trong việc thực hiện nội dung
chương trình sách giáo khoa mới. Muốn vậy, trước hết là đổi mới nhận thức của cán
bộ quản lý, kế cả tổ trưởng, lẫn giáo viên phải xác định đổi mới căn bản, toàn diện
phương pháp dạy học là một quá trình lâu dài, cần phải ủng hộ, khuyến khích sự chủ
động, năng động, sáng tạo của từng giáo viên và học sinh.


- Đổi mới hình thức tổ chức dạy học là phối hợp hợp lý dạy học cá nhân hoặc dạy học
theo từng nhóm nhỏ, dạy học cả lớp hay dạy học ngoài trường, dạy học có sử dụng trò
chơi học tập phù hợp với đặc điểm tình hình lớp học.
4.5. Giải pháp năm: Xây dựng môi trường học thân thiện, phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm
-HS cần được khuyến khích tự tạo ra môi trường học tập trong lớp theo sở thích của
các em. Hãy để các em tự trang trí lớp học bằng các tranh ảnh , vật thật hoặc tranh vẽ
gần gũi với các em tạo hứng thú học tập cho các em. HS tự làm cho lớp học sạch , đẹp
thì mới hình thành các em khái niệm lớp mình và có ý thức giữ gìn lớp học ( Bàn ghế
thẳng hàng, không vẽ viết bậy, lớp học không rác…)thì mới nâng lên ý thức xây dựng
góp phần giữ gìn trường lớp xanh, sạch đẹp.
- Trong những giờ sinh hoạt cần mạnh dạn , tự tin trình bày ý kiến nguyện vọng của
bản thân để các bạn và cô có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng của mình. Tham gia
tích cực các hoạt động , đặc biệt là các hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt sao nhi
đồng, chăm sóc cây…

được cải cách nhiều lần, Nhìn lại đoạn đường phát triển của giáo dục nước
nhà, trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát
triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước.
Qua đề tài này mong muốn rằng mọi người sẽ có cái nhìn rõ hơn về nền giáo
dục của các nước trên thế giới cũng như có cái nhìn khách quan hơn về nền
giáo dục nước nhà, từ đó đưa ra những giải pháp, rút ra bài học kinh nghiệm
nhằm ra những con đường riêng, hướng đi riêng phù hợp với vai trò của mình.
Là những giáo viên Tiểu học, bản thân chúng tôi nhận thấy rằng : chương trình
giáo dục Tiểu học của Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi
về sinh hoạt chuyên môn, cách đánh giá cũng như phương pháp dạy học… góp
phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy chương trình Tiểu học
hiện tại còn đặt nặng về lí thuyết, học sinh chưa được thực hành, trải nghiệm
nhiều, trang thiết bị, cơ sở vật chất vẫn còn thiếu thốn, giáo viên chưa được bồi
dưỡng thường xuyên… những điều này cũng gây ra những ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giảng dạy và học tập. Chúng tôi hy vọng rằng trong thời
gian đến sẽ có những hướng khắc phục cụ thể để Việt Nam của chúng ta sẽ
được bè bạn quốc tế biết đến như là một đất nước có nền giáo dục tiến bộ và có
chất lượng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.
2.
3.
4.
5.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status