Sơ lược lịch sử giáo dục việt nam và một số nước trên thế giới phần 1 - Pdf 30

TÀI LIỆU DÙNG CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
SƠ LƯC LỊCH SỬ
GIÁO DỤC VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI
NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI
Nhóm biên soạn Nguyễn Thò Thái
Huỳnh Thò Mai Phương
Nguyễn Quang Kính
Andrea Gallina
Eberhards Kobler
Trần Phước Lónh
Nguyễn Thò Thái
Vũ Văn Hùng
Bùi Thò Thanh Hiền
Nguyễn Tiến Cương
NHỮNG NGƯỜI BIÊN SOẠN
Biên dòch
Chủ trì biên soạn và hiệu đính
Lời nói đầu
Lời giới thiệu
CHƯƠNG I - SƠ LƯC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
I. Quá trình phát triển giáo dục- Những mốc lòch sử và sự kiện quan trọng
II. Cơ cấu quản lý giáo dục ở Việt Nam
III. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay
IV. Những thách thức đối với giáo dục Việt Nam
V. Cải cách giáo dục là yêu cầu tất yếu - Phương hướng phát triển giáo dục và đào
tạo đến năm 2020
VI. Phụ lục
CHƯƠNG II - SƠ LƯC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA
MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU Á

52
56
65
66
66
67
68
72
83
83
86
91
94
96
97
99
104
108
108
112
121
124
124
II. Khái quát hệ thống giáo dục Nhật Bản
III. Chương trình giảng dạy
IV. Giáo viên
V. Thi cử và đánh giá
VI. Những cải cách giáo dục ở Nhật Bản
CHƯƠNG III - QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU
VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸƠƠ

137
146
147
152
153
153
154
155
158
162
162
163
166
173
173
175
179
187
187
189
190
193
194
203
203
204
208
211
212
218

5. Công nghệ thông tin trong trường học;
6. Quản trò hiệu quả trường học.
Bộ Tài liệu được biên soạn cho hiệu trưởng các trường phổ thông (kể cả các trường ngoài
công lập) và cũng sẽ rất bổ ích đối với các phó hiệu trưởng, những người giúp hiệu trưởng thực
hiện kế hoạch phát triển nhà trường. Các tổ trưởng bộ môn, giáo viên cốt cán, với hy vọng một
ngày nào đó sẽ trở thành hiệu trưởng, cũng rất cần tham khảo tài liệu này. Trong lúc chưa trở
thành hiệu trưởng, việc am tường các nhiệm vụ của hiệu trưởng sẽ giúp họ tích luỹ kiến thức,
kinh nghiệm để phát triển các kỹ năng lãnh đạo; để hỗ trợ và giám sát hiệu trưởng trong việc
đáp ứng các yêu cầu quản lý theo hướng công khai, minh bạch vv.
Dự án hy vọng các cơ sở đào tạo về quản lý giáo dục, thậm chí cả các trường sư phạm cũng
tìm thấy sự hữu dụng trong bộ tài liệu này khi thực hiện các khóa đào tạo sinh viên sư phạm.
6 LỜI NĨI ĐẦU
Dự án tin rằng những người công tác trong ngành giáo dục, từ các cán bộ trong Bộ GD-ĐT,
cho tới các cán bộ công tác tại các Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT và những người tiến hành các
hoạt động nghiên cứu về việc nâng cao hiệu quả hoạt động của trường học cũng sẽ tìm thấy
những nội dung bổ ích trong Bộ Tài liệu này.
Bộ Tài liệu sẽ hỗ trợ các hiệu trưởng nói riêng và các nhà quản lý giáo dục nói chung trong
quá trình phát triển năng lực quản lý của mình. Tuy nhiên, do điều kiện đòa lý, kinh tế và giáo
dục tại các vùng miền của nước ta rất khác nhau, tài liệu không thể bao quát hết và đáp ứng
đầy đủ nhu cầu thực tiễn quản lý cho từng đòa phương. Điều này đòi hỏi sự sáng tạo của mỗi
cán bộ quản lý trong việc áp dụng linh hoạt vào thực tiễn đòa phương mình, phù hợp với đặc
thù nhà trường và đặc thù giáo dục của vùng miền.
Phương pháp sử dụng tài liệu
Do mỗi người có một xuất phát điểm khác nhau về trình độ và kinh nghiệm chuyên môn
nên nhu cầu học tập của mỗi người là rất khác nhau. Cách sử dụng phù hợp nhất là tự học theo
những đònh hướng phát triển của bản thân (còn gọi là học tập theo lối mở). Có nghóa là, người
đọc tự chọn thời gian và nội dung muốn học theo thứ tự ưu tiên của chính mình. Nếu tự học,
người đọc cần suy ngẫm về những điều vừa đọc được, so sánh, vận dụng vào thực tế đang diễn
ra. Có thể làm điều này bất cứ lúc nào, khi ở trường, ở nhà, thậm chí trên đường đi công tác.
Theo cách này, người đọc sẽ không phải chòu áp lực từ bên ngoài mà lại có thể tự tìm ra những

quan trọng giúp nhà quản lý hiểu được các hệ thống giáo dục khác nhau, nắm được các
vấn đề cơ bản về cải cách giáo dục, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong
quá trình phát triển và cải cách. Với việc nghiên cứu giáo dục đối chiếu, chúng ta học
tập được những cách làm hay và hiệu quả, đồng thời tránh được những sai lầm trong cải
cách mà các nước đã trải qua.
Trong cuốn sách này, ngoài giáo dục Việt Nam, chúng tôi còn giới thiệu tám hệ
thống giáo dục tiêu biểu thuộc hai nền giáo dục phương Đông và phương Tây với đặc thù
về hệ thống, trình độ phát triển và xu hướng cải cách giáo dục do những sự khác biệt căn
bản về văn hóa, lòch sử, chính trò cũng như đặc điểm kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Các nước châu Á mà chúng tôi giới thiệu gồm Trung Quốc, Singapore, Malaysia và Nhật
Bản. Các nước phương Tây mà chúng tôi chọn lựa gồm có Anh, Pháp, Phần Lan và Hoa
Kỳ. Đây đều là các quốc gia có sự phát triển giáo dục ở trình độ cao với việc phân cấp,
phân quyền trong quản lý và việc cung cấp những cơ hội giáo dục tốt nhất cho người học.
Bài học rút ra từ thực tiễn giáo dục các nước có thể cho thấy xu hướng giáo dục hiện đại
là thống nhất sự đa dạng bằng việc chuẩn hóa trong đánh giá, đa dạng hóa các loại hình
giáo dục và quản lý; tìm các biện pháp giải quyết khó khăn giữa sự cạnh tranh vượt trội
và bình đẳng trong giáo dục; phát triển giáo dục toàn diện và giáo dục hướng đến những
kỹ năng thực tiễn để giúp người học giải quyết những vấn đề của cuộc sống trong xu thế
toàn cầu hóa với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin.
Trong cuốn sách này, ngoài việc giới thiệu lòch sử phát triển giáo dục, chúng tôi còn
mô tả hệ thống giáo dục và đặc biệt là những vấn đề cải cách cụ thể gần đây của từng
quốc gia với mong muốn làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ quản lý trong quản lý
trường học cũng như trong tiến trình cải cách giáo dục ở Việt Nam.
Do thời gian chuẩn bò tài liệu có hạn, chúng tôi chưa giới thiệu hết những hệ thống
giáo dục và những nỗ lực cải cách giáo dục của tất cả các nước, đặc biệt là Hàn Quốc,
Nga, Đức, Úc, New Zealand, Canada, v.v mặc dù đây là những nước có quan hệ quốc
tế về giáo dục rất gần gũi với Việt Nam. Những tài liệu mà chúng tôi sử dụng khá đa dạng
và gồm nhiều thứ tiếng khác nhau, nên chắc chắn trong quá trình biên soạn và tổng hợp
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự lượng thứ của quý độc giả.
TM. Nhóm biên soạn

được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Sau khi mở mang việc dạy học ở
kinh đô, dần dần Nhà nước phong kiến chú ý đến việc tổ chức hoạt động giáo dục ở
đòa phương. Năm 1397, thời vua Trần Thuận Tông, triều đình cho đặt học quan ở các
lộ, phủ lớn (đơn vò hành chính tương đương với cấp tỉnh ngày nay) để lo việc giáo dục.
Đến thế kỷ XV - XVI, nền giáo dục Việt Nam đã phát triển rực rỡ. Các phủ, lộ đều có
trường công.
Đồng thời với việc phát triển hệ thống giáo dục, Nhà nước phong kiến rất quan
tâm tổ chức các kỳ thi, xem đây là biện pháp quan trọng nhằm chọn người tài giỏi
tham gia bộ máy điều hành quốc gia. Năm Ất Mão (1075), dưới thời vua Lý Nhân
Tông, triều đình mở kỳ thi Nho học tam trường để tuyển Minh kinh bác học. Thống
kê từ chính sử, trong thời gian 84 năm (1442 đến 1526), Nhà nước phong kiến đã tổ
chức 26 khoa thi Hội. Theo quy đònh thời đó, trước thi Hội có thi Hương, như vậy tổng
số các kỳ thi lên tới 52, chưa kể cứ sau một kỳ thi Hội còn một kỳ thi Đình để chọn 3
11Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
người đứng đầu và xếp hạng những người trúng tuyển. Năm 1471 (đời vua Lê Thánh
Tông), số quan lại có phẩm tước là 5.370, riêng ở triều đình (Nhà nước Trung ương)
là 2.755, phần lớn được lựa chọn qua thi cử. Các triều đại tiếp theo, việc thi cử vẫn
được duy trì và phát triển với quy mô lớn hơn, kể cả trong thời gian Trònh - Nguyễn
phân tranh. Theo thống kê chưa đầy đủ, tổng số các tiến só, phó bảng và tương đương
(trúng tuyển thi Hội) kể từ khoa thi đầu tiên 1075 đến khoa thi cuối cùng 1919 là
2.848 người.
Cần lưu ý là, các quy đònh về thi cử dưới thời phong kiến hết sức chặt chẽ, chứng
tỏ năng lực quản lý đối với hệ thống giáo dục của các triều vua từ Lý, Trần đến hậu Lê,
Nguyễn rất cao. Kỳ thi Hội năm 1442 có 450 thí sinh, trúng tuyển 33 (chiếm 7,3%).
Kỳ thi Hội năm 1448 có 750 thí sinh, trúng tuyển 27 (chiếm 3,6%). Tuy chuyện buôn
quan, bán tước cũng có lúc xảy ra nhưng việc gian lận trong thi cử thì rất hiếm và đối
với những người có hành vi gian lận trong thi cử dù ở bất kỳ cấp bậc nào cũng đều bò
trừng trò nghiêm khắc. Bằng việc tuyển chọn nhân tài thông qua thi cử, tuy hết sức khắt
khe nhưng lại mang yếu tố dân chủ vì đã tạo được cơ may cho con cái tầng lớp bình
dân. Một điều đặc biệt lý thú là, trong giai đoạn mới thành lập, vương triều Trần cũng

nền giáo dục Pháp - Việt, chủ yếu để đào tạo người phục vụ cho bộ máy cai trò của
thực dân. Trong năm học 1936 - 1937, ở vào thời điểm thònh vượng nhất của xứ Đông
Dương, cả nước chỉ có 2.322 trường sơ học (3 năm), bình quân 3 làng, chừng 3.000 dân
có một trường, số học sinh bằng 2% dân số; 638 trường tiểu học (3 năm), bình quân 34
làng, chừng 30.000 dân có một trường, số học sinh bằng 0,4% dân số; 16 trường cao
đẳng tiểu học (4 năm), bình quân 1,2 triệu dân có một trường, số học sinh bằng 0,05%
dân số; 3 trường trung học công và 3 trường trung học tư ở ba thành phố (Hà Nội, Huế,
Sài Gòn), số học sinh trung học công bằng 0,0019% dân số. Năm học 1941 - 1942,
toàn Đông Dương có 3 trường đại học (Luật, Y - Dược, Khoa học) đặt tại Hà Nội với tổng
số 834 sinh viên (628 sinh viên người Việt). Trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt, tiếng
Pháp chiếm ưu thế và là chuyển ngữ ở bậc đại học. Với một nền giáo dục như vậy, trên
95% dân số Việt Nam mù chữ. Nhưng, vượt ngoài mong đợi của chính quyền thực dân,
từ trong nền giáo dục đó vẫn xuất hiện một đội ngũ trí thức uyên thâm về học thuật,
nồng nàn lòng yêu nước, có những đóng góp rất to lớn vào công cuộc giành lại độc lập,
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Trong lónh vực giáo dục dưới thời thuộc Pháp, bên cạnh hoạt động của hệ thống
trường lớp của Nhà nước thực dân - phong kiến, có hai sự kiện quan trọng: Một là,
phong trào Duy Tân do một số nhà Nho yêu nước (Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp…) khởi xướng mà nội dung quan trọng là lập trường học, cổ xúy lòng yêu
nước, phê phán chế độ quân chủ lỗi thời, khuyến khích thực nghiệp, với mong muốn
thực thi học thuyết “Chấn dân khí - Khai dân trí - Hậu dân sinh” nhằm nâng dân tộc
ngang tầm thời đại để trên cơ sở đó giành lại độc lập. Phong trào Duy Tân diễn ra sôi
nổi ở Quảng Nam bắt đầu từ năm 1902, đến năm 1907, với việc thành lập Đông Kinh
Nghóa Thục ở Hà Nội (do Lương Văn Can chủ xướng), phong trào Duy Tân đã tiến vượt
bậc cả về tổ chức và lý luận. Hai là, Hội truyền bá chữ quốc ngữ do các trí thức yêu
nước thành lập ngày 05/11/1938. Ban lãnh đạo gồm các ông Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ,
12 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
1.
Người thay mặt Chủ tòch Hồ Chí Minh ký ba sắc lệnh này là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc đó là Bộ
trưởng Bộ Nội vụ của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

thành lập, xoá nạn mù chữ và nâng cao trình độ học vấn của toàn dân đã trở thành một
quốc sách và việc học tập để biết đọc, biết viết, biết tính toán đã được nhân dân tiếp
nhận làm một tiêu chí biểu hiện văn hoá. Từ đó, qua suốt nhiều thập kỷ, Việt Nam kiên
trì thực hiện xoá mù chữ và nâng cao trình độ học vấn của toàn dân.
13Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
Song song với việc tổ chức để các trường mở cửa, tiếp tục công việc giảng dạy, học
tập, Bộ Giáo dục cố gắng giúp Chính phủ kiến tạo cơ sở pháp lý cho chính sách giáo
dục của chế độ mới. Năm 1946, trong bối cảnh phải tập trung đối phó với mưu mô gây
chiến của các thế lực thực dân, Chính phủ đã ban hành hai sắc lệnh số 146-SL và số
147-SL. Nội dung chủ yếu của hai sắc lệnh này là:
(i) Khẳng đònh tôn chỉ của nền giáo dục nước nhà là phụng sự lý tưởng quốc gia
và dân chủ; ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục là: dân tộc, khoa học, đại
chúng.
(ii) Xác đònh cơ cấu của nền giáo dục mới, sau giáo dục ấu tró (tiền học đường), có
ba cấp học:
Đệ nhất cấp, là bậc học cơ bản, thực hiện trong 4 năm học.
Đệ nhò cấp, có hai ngành: (i) ngành học tổng quát gồm hai bậc: bậc phổ thông 4
năm và bậc chuyên khoa 3 năm; (ii) ngành học chuyên môn, gồm hai bậc: bậc
thực nghiệm 1 năm và bậc chuyên nghiệp từ 1 - 3 năm (tuỳ theo ban).
Đệ tam cấp, có đại học (gồm các ban: văn khoa, khoa học, pháp lý ) và cao đẳng
chuyên môn, sinh viên học ít nhất 3 năm. Tiếp nối đại học là các “nghiên cứu viện”.
Song song với ba cấp học là ba cấp của ngành sư phạm, gồm sư phạm sơ cấp, sư
phạm trung cấp, sư phạm cao cấp.
(iii) Ấn đònh những điều khoản pháp lý để thực hiện bậc học cơ bản: tất cả trẻ em
từ 7 - 13 tuổi đều có thể đến trường, không phải trả tiền học và từ năm 1950 sẽ
là bậc học bắt buộc. Đối với đại học, từ 1950 trở đi, các môn học được dạy bằng
tiếng Việt. Đây là một quyết đònh táo bạo, thể hiện tinh thần dân tộc của đội ngũ
trí thức Việt Nam, vì tiếng Pháp, trong một thời gian dài trước đó vốn được dùng
làm chuyển ngữ ở tất cả các nhà trường.
(2)

Tại vùng tạm chiếm, các trường học giảng dạy, học tập theo một chương trình 12
năm, căn bản dựa trên một chương trình được canh tân bởi một số học giả yêu nước từ
đầu năm 1945 (Chương trình Hoàng Xuân Hãn), khi Đông Dương thuộc Pháp bò người
Nhật xâm chiếm
(3)
. Đặc trưng của nền giáo dục ở vùng tạm chiếm là giảm bớt màu sắc
của của nền giáo dục thuộc đòa, tiếng Việt được thay thế cho tiếng Pháp trong giảng
dạy ở giáo dục phổ thông, nhiều nội dung có yếu tố dân tộc đã được đưa vào chương
trình. Tuy nhiên, chương trình vùng tạm chiếm vẫn chòu ảnh hưởng nặng nề của nền
giáo dục của Pháp.
3. Giáo dục Việt Nam trong những năm đất nước bò tạm thời chia cắt
3.1. Ở miền Bắc
Sau khi hoà bình được lập lại, trên miền Bắc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã tiếp quản giáo dục ở vùng mới giải phóng và tích cực chuẩn bò cho một cuộc cải
cách giáo dục (thứ hai) trong bối cảnh vừa phục hồi kinh tế, xây dựng miền Bắc vừa đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong cuộc cải cách giáo dục lần này, mục đích giáo dục được xác đònh là: Đào
3.
Chương trình của học giả yêu nước Hoàng Xuân Hãn
15Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh thiếu niên thành “những người phát triển về mọi mặt,
những công dân tốt, cán bộ tốt”. Nhằm mục đích đó, nội dung giáo dục mang tính toàn
diện (coi trọng 4 mặt: đức, trí, thể, mỹ) với phương châm: “Liên hệ lý luận với thực tiễn,
gắn nhà trường với đời sống xã hội”.
Về mặt phương pháp, cuộc cải cách lần này đã xoá bỏ nền sư phạm quyền uy, khai
mở quan hệ thầy - trò dân chủ, phát huy tác dụng của các hoạt động ngoại khoá và từng
bước đưa hoạt động lao động công ích, lao động sản xuất vào nhà trường, xem đó như
là phương thức quan trọng để hình thành nhân cách.
Thông qua cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, hệ thống giáo dục phổ thông 12
năm tại vùng mới được giải phóng và hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm ở vùng tự do

Chỉ thò 114/TTg ngày 27/3/1957
6.
Theo cuốn “Escalade de guerre et du crime par Nixon au Việt Nam” (Cuộc leo thang chiến tranh và
tội ác do Nixon gây ra ở Việt Nam)
nghiệp đã có chương trình giảng dạy, học tập giàu tính thực hành, tiếc rằng khi quân
đội Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc, các loại trường này không
còn điều kiện để duy trì.
Song song với việc triển khai cải cách giáo dục ở phổ thông, Chính phủ thành lập
Ban lãnh đạo Trung ương thanh toán nạn mù chữ, xác đònh giáo dục bình dân là một
bộ phận không thể thiếu trong kế hoạch Nhà nước
(5)
và phát động thực hiện kế hoạch
3 năm thanh toán nạn mù chữ (1956 - 1958). Kết quả, đến năm 1959 đã có 2.161.362
người đã thoát nạn mù chữ, hầu hết dân cư trong các tỉnh đồng bằng biết đọc, biết viết;
đưa tỷ lệ dân số biết chữ trong độ tuổi 12 - 50 lên 93,4%. Tuy vậy, kết quả xoá mù chữ
lần này, cũng như về sau này, không bền vững, do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên
nhân chủ yếu là do chưa thực hiện phổ cập giáo dục cấp I.
Trên cơ sở kết quả xoá mù chữ đã đạt được, hệ thống giáo dục bình dân chuyển
trọng tâm sang nâng cao trình độ học vấn của người lớn - người lao động và được gọi
là hệ thống bổ túc văn hoá, song hành với hệ thống giáo dục phổ thông. Với phương
châm “cần gì học nấy”, hệ thống bổ túc văn hóa rất đa dạng về hình thức tổ chức cũng
như về chương trình học. Hình thức học tập tại chức có loại trường/lớp dành cho đối
tượng công tác tại cơ quan, xí nghiệp, có loại trường/lớp dành cho đối tượng là nông
dân. Hình thức học tập tập trung có trường phổ thông lao động (dành cho cán bộ quản
lý), trường bổ túc văn hóa công nông dành cho những người lao động trẻ tuổi để đưa
vào đại học nhằm đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công nông. Mỗi loại
hình trường/lớp lại có chương trình và sách giáo khoa (hoặc tài liệu học tập riêng) nhằm
“phù hợp với đối tượng và mục tiêu đào tạo”.
Song song với việc mở các trường bổ túc văn hóa tập trung, ở miền Bắc còn có các
trường học sinh miền Nam để nuôi, dạy con em các cán bộ miền Nam. Nhiều học sinh

hơn thực hành, tập trung vào vào các ngành khoa học cơ bản, luật, kinh tế, hành chính.
Các trường đại học thuộc các ngành này phát triển nhanh hơn các trường kỹ thuật, công
nghệ, nông - lâm - súc. Mặt khác, tiếp xúc với nền giáo dục Bắc Mỹ, một số nhà giáo
dục cũng đã học tập, tiếp thu được một số kinh nghiệm giáo dục Hoa Kỳ, trên cơ sở đó
đề xuất một số sáng kiến góp phần canh tân giáo dục nhất là về xây dựng chương trình
và phương pháp dạy học. Điều đặc biệt là, suốt trong thời gian đô thò miền Nam nằm
trong sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, mặc dù chòu tác động và ảnh hưởng của
nền giáo dục Bắc Mỹ, tuổi trẻ học đường vẫn duy trì tinh thần phản kháng và đã có
những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc.
Ở vùng giải phóng, Bộ Giáo dục trong Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam
Việt Nam đã ban hành chương trình phổ thông 12 năm, với loại sách giáo khoa khác
hẳn sách giáo khoa dùng trong vùng tạm chiếm, thể hiện rõ rệt tinh thần yêu nước, chống
xâm lược và tay sai. Bộ chương trình và sách giáo khoa này có nhiều cải tiến cả về nội
dung và phương pháp so với chương trình và sách giáo khoa 10 năm ở miền Bắc.
4. Giáo dục Việt Nam từ 1975 đến 1986
4.1. Trong những năm đầu thống nhất đất nước
Tháng 4 năm 1975, cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước của
18 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
7.
Trong chế độ cũ có tới 2.500 trường tư thục, trong đó một nửa do các tổ chức tôn giáo mở
nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn. Sau ngày chiến thắng, đối với lónh vực
giáo dục ở các tỉnh miền Nam, Chính phủ tập trung vào hai nhiệm vụ: (i) Xoá bỏ tàn dư
của nền giáo dục cũ; (ii) Thực hiện xoá mù chữ cho nhân dân trong độ tuổi 12 - 50.
Về nhiệm vụ thứ nhất, Bộ Giáo dục đã khẩn trương xây dựng và ban hành hành
chương trình 12 năm mới, biên soạn và in 20 triệu bản sách giáo khoa theo chương trình
đó để thay thế sách giáo khoa cũ ở miền Nam. Hầu hết giáo viên của chế độ cũ được
tuyển dụng lại; đồng thời, thực hiện công lập hoá trường tư thục
(7)
, tách nhà trường ra
khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, đưa dần toàn bộ trường tư vào sự quản lý của Nhà nước.

học chuyên ngành được xây dựng và phát triển.
Đồng thời với việc ra Nghò quyết xác đònh phương hướng cải cách giáo dục, Bộ
Chính trò cũng đã quyết đònh thành lập Uỷ ban Cải cách giáo dục của Trung ương và
Chính phủ. Tổ chức này có ba nhiệm vụ:
- Chỉ đạo nghiên cứu và xây dựng các đề án về chủ trương, kế hoạch và biện pháp
thực hiện;
- Kiểm tra, đôn đốc các ngành, các đòa phương;
- Chuẩn bò dự luật cải cách để trình Quốc hội.
Cuộc cải cách giáo dục lần này được triển khai bắt đầu từ năm học 1981 - 1982.
Việc thay sách giáo khoa ở các cấp học phổ thông, một nhiệm vụ quan trọng nhất của
cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba, đã hoàn thành vào năm 1996, tạo ra sự thống nhất
về giáo dục phổ thông trong cả nước. Riêng về nội dung giáo dục, so với các chương
trình giảng dạy và học tập trước đó, chương trình cải cách mang nhiều yếu tố hiện đại
hơn, do đó tạo ra tiền đề chất lượng giáo dục có thể đạt tới trình độ cao hơn trước.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, cuộc cải cách lần này đã gặp rất nhiều khó
khăn và bộc lộ một số hạn chế. Hạn chế lớn nhất là, mục tiêu và giải pháp thiếu tính
khả thi, chẳng hạn muốn phát triển quy mô lớn, muốn bao cấp về giáo dục cho mọi đối
tượng, muốn phổ cập giáo dục toàn dân Trong khi đó lại thiếu sự chuẩn bò về nguồn
lực và sự thực không thể bảo đảm về nguồn lực do chiến tranh biên giới và kinh tế suy
thoái. Một ví dụ cụ thể về giải pháp thiếu tính khả thi của cuộc cải cách giáo dục lần
thứ ba, biểu hiện của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, là việc sáp nhập trường
cấp I và cấp II thành trường phổ thông cơ sở (9 năm). Vì các điều kiện thực tế không
cho phép (đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý không đủ năng lực; trường sở, thiết bò
thiếu thốn ) nên những trường đã sáp nhập sau một thời gian đều phải tách trở lại. Về
mặt quan niệm, tư tưởng bao cấp nặng nề, nhấn mạnh giáo dục là “phúc lợi xã hội” đã
cản trở sự phát triển giáo dục. Với quan niệm đó, khi xây dựng dự toán ngân sách Nhà
nước, kinh phí giáo dục chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ sau khi đã ưu tiên bố trí cho các khu
vực khác. Người dân, do vậy, sinh ra tư tưởng ỷ lại, xem chi phí học hành của con em,
ngay cả học nghề hay học đại học, cũng dựa vào sự bao cấp của Nhà nước. Tư tưởng
này hoàn toàn không phù hợp với một nước nghèo và chậm phát triển như Việt Nam,

về quan niệm, cách làm giáo dục. Từng bước thực hiện chất lượng toàn diện theo cách
làm và mức độ phù hợp từng loại đối tượng, từng loại trường và từng đòa phương; gắn
giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp. Tiếp tục khẳng đònh mạnh mẽ trách nhiệm
của Nhà nước, đồng thời thực hiện xã hội hoá giáo dục. Trong khi xã hội hóa nguồn lực,
điều quan trọng là khắc phục tâm lý ỷ lại và thái độ khoán trắng cho Nhà nước.
Một số giải pháp được triển khai nhằm thực hiện đònh hướng đổi mới giáo dục phổ
thông lúc đó là: Chính phủ cho phép thu học phí ở tất cả các cấp học, trừ tiểu học vì là
cấp phổ cập; cho phép tổ chức trường/lớp tư thục ở giáo dục tiền học đường; các trường/
21Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
lớp bán công, dân lập ở tất cả các bậc học phổ thông. Ngành giáo dục tiến hành phân hoá
việc giáo dục theo trình độ của đối tượng, phát triển các trường chuyên cấp II, cấp III dành
cho học sinh có năng khiếu, lớp chọn trong các trường cấp II, cấp III bình thường dành cho
học sinh học giỏi (trường chuyên, lớp chọn không tổ chức ở bậc tiểu học vì phòng ngừa
chặn tình trạng quá tải, tránh nguy cơ dẫn trẻ đến chỗ phát triển phiến diện). Đẩy mạnh
thí điểm chương trình trung học chuyên ban, chuẩn bò triển khai đại trà nhằm thực hiện
phân hóa quá trình giáo dục theo trình độ, năng lực và nguyện vọng của học sinh và để
phân luồng trong giáo dục. Thực hiện giáo dục kỹ năng lao động và hướng nghiệp bằng
cách liên kết giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp. Đối với bậc tiểu học, cùng với
việc hoàn thiện từng bước chương trình cải cách hiện hành, đã thêm chương trình dành
riêng cho con em các dân tộc ít người, chương trình tối thiểu áp dụng trong các lớp học
linh hoạt dành cho những trẻ em vì điều kiện kinh tế không thể đến trường chính qui. Rút
kinh nghiệm của các chiến dòch xoá mù chữ trước đây, Chính phủ lập Uỷ ban quốc gia
chống nạn mù chữ, gắn nhiệm vụ chống nạn mù chữ với phổ cập giáo dục tiểu học.
Đối với giáo dục đại học và dạy nghề, chuyển từ đào tạo cho kinh tế quốc doanh
và tập thể sang đào tạo cho xã hội nhiều thành phần kinh tế và đáp ứng nhu cầu học tập
của thanh niên; khai thác và sử dụng mọi nguồn tài chính; tự lực xây dựng và thực hiện
các chỉ tiêu ngoài kế hoạch Nhà nước; đào tạo theo nhiều loại chương trình. Một số giải
pháp: yêu cầu người học đóng học phí và tự túc trong thời gian học tập; cho phép và
khuyến khích mở trường/lớp dạy nghề tư thục và mở trường đại học dân lập; cấu trúc lại
chương trình đào tạo (theo mô đun kỹ năng ở dạy nghề, theo ngành rộng và chia thành

(10)
. Việc
thí điểm đào tạo kỹ thuật viên cấp cao đã thực hiện ở 6 trường trung học chuyên nghiệp
thuộc các ngành bưu chính viễn thông, kỹ thuật công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải,
kỹ thuật mỏ, hoá chất và văn hoá nghệ thuật. Khó khăn lớn là về tổ chức quá trình đào
tạo (thiếu giáo viên nên phải dạy dồn, một giáo viên dạy nhiều môn ), lại thiếu cơ sở
thực nghiệm cho các môn học nên không đảm bảo chất lượng đào tạo cao đẳng Việc
đào tạo theo mô đun kỹ năng hành nghề (MES) đã được triển khai ở 15 nghề, trong đó
đã biên soạn theo và xuất bản 5 bộ tài liệu dạy và học theo MES cho 5 nghề để áp dụng
rộng rãi. Một số trường dạy nghề đào tạo dài hạn thuộc lónh vực xây dựng, bưu chính
viễn thông cũng đang bắt đầu áp dụng phương thức đào tạo theo mô đun.
Về giáo dục đại học, các trường đi dần đến chỗ ổn đònh, từng bước tăng quy mô,
giảng viên có thêm thu nhập bằng các hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong mạng
lưới trường đại học, cao đẳng, đã có 5 đại học đa lónh vực lớn được xây dựng ở Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng; có thêm một số trường đại học
ngoài công lập. Quan hệ quốc tế được mở rộng, đội ngũ lãnh đạo, giáo sư, giảng viên có
điều kiện học hỏi, trao đổi với các đồng nghiệp nước ngoài về những vấn đề học thuật.
Mặc dù đã vượt qua những thách thức gay gắt ở giai đoạn đầu đổi mới, nhưng có
một số giải pháp nêu ở trên gặp khó khăn trong thực hiện, không phát huy được tác dụng
tích cực hoặc bò biến dạng trong thực tế, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Tháng 12 năm
23Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
8.
Năm 2004, tỷ lệ lưu ban ở TH là 1,01%; ở THCS là 0,83%; ở THPT là 1,34%
9.
Đầu năm 1990, cả nước có khoảng 2,1 triệu trẻ em 6 - 14 tuổi thất học, 2 triệu người lớn ở độ tuổi
15 - 35 bò mù chữ.
10.
Khó khăn lớn nhất đối với loại hình này là, chỉ phát huy tính ưu việt khi các kiến thức, kỹ năng phổ
thông và kỹ thuật được dạy song song; lý thuyết chuyên môn và thực hành nghề được cấu trúc theo
hướng tích hợp chứ không theo một phép cộng giản đơn chương trình giáo dục bổ túc với đào tạo nghề.

trung học phổ thông tăng bình quân 26,1%/năm.
II. CƠ CẤU QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
Khái niệm quản lý được đề cập ở đây bao gồm cả quản lý nhà nước và quản lý chuyên
môn. Quản lý nhà nước, ở cấp vó mô, gồm: xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách giáo dục; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật về giáo dục; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục.
Theo Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Giáo dục và sự phân công của Chính phủ, Bộ Giáo dục
24 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
và Đào tạo (GDĐT) quản lý nhà nước về giáo dục tiền học đường, giáo dục phổ thông, giáo dục
đại học và một phần giáo dục nghề nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp); Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội (LĐTBXH) quản lý giáo dục nghề nghiệp (trừ trung cấp chuyên nghiệp).
Theo Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (UBND), Luật Giáo dục và theo sự
phân cấp của Chính phủ, UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước, bảo đảm các điều kiện
về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bò dạy học của các trường công lập thuộc
phạm vi quản lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục tại đòa phương;
đồng thời, kiểm soát các trường ngoài công lập trong việc thực hiện các quy đònh của pháp
luật. Phạm vi quản lý trong lónh vực giáo dục của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện được
phân đònh như sau: Cấp tỉnh quản lý các trường trung học phổ thông, các trường trung cấp
và trường dạy nghề, các trường cao đẳng của tỉnh, các trung tâm giáo dục thường xuyên của
tỉnh ; cấp huyện quản lý các trường mầm non, trường tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm kỹ
thuật tổng hợp - hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên và trung tâm dạy nghề của
huyện Cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp tỉnh quản lý về giáo dục là Sở Giáo dục và Đào
tạo (Sở GDĐT); cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp huyện quản lý về giáo dục là Phòng
Giáo dục và Đào tạo (Phòng GDĐT).
25Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
Sơ đồ cơ cấu quản lý giáo dục Việt Nam


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status