Tổng quan về lợi thế so sánh và vận dụng đối với mặt hàng dừa ở Việt Nam hiện nay - Pdf 67

Tổng quan về lợi thế so sánh và vận dụng đối với mặt hàng dừa ở
Việt Nam hiện nay
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Tổng quan về thương mại quốc tế và lợi thế so sánh
Các quốc gia trên thế giới tham gia vào hoạt động thương mại quốc
tế với hai lý do cơ bản, mỗi lý do đều liên quan đến cái lợi thu được từ
thương mại. Thứ nhất, các nước tiến hành buôn bán với nhau, vì họ
khác nhau, cũng như cá nhân con người, các quốc gia có thể được lợi
từ những khác biệt giữa họ bằng cách đạt tới một sự dàn xếp theo đó
mỗi nước sẽ làm những gì mà xét một cách tương đối nước đó làm tốt
hơn
Thứ hai, các nước tiến hành buôn bán với nhau để đạt được lợi thế
nhờ quy mô sản xuất. Điều đó có nghĩa là, nếu như mỗi nước đi vào
chuyên môn hóa, ở một số loại hàng hóa, nó có thể sản xuất mỗi loại
hàng này ở quy mô lớn hơn và do đó có hiệu quả hơn trong trường hợp
nước đó sản xuất tất cả mọi thứ. Trong thực tế, thương mại quốc tế
phản ánh sự tác động qua lại của hai động cơ trên.
Thương mại quốc tế làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thông qua xuất khẩu và nhập khẩu
nhằm đạt tới cơ cấu có lợi cho nền kinh tế trong nước. Đồng thời
thương mại quốc tế nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân do việc
mở rộng trao đổi mà khai thác triệt để lợi thế của nền kinh tế trong
nước.
Trong những năm gần đây thương mại quốc tế có xu hướng tăng
nhanh, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất, điều đó
đưa đến tỷ trọng kim ngạch ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc
dân của mỗi quốc gia ngày càng lớn, thể hiện mức độ gia tăng của nền
kinh tế mỗi quốc gia ra thị trường thế giới.
Như vậy trong thương mại quốc tế nếu quốc gia nào gia tăng kim
ngạch xuất khẩu sẽ đóng góp một phần to lớn vào sự phát triển của
quốc gia, tận dụng được những nguồn lực sẵn có là ưu thế lớn của

vẫn có thể chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có bất lợi là nhỏ
nhất thì họ vẫn có lợi. Còn quốc gia có lợi hoàn toàn trong việc sản xuất tất cả
các sản phẩm sẽ tập trung chuyên môn hóa trong việc sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm có lợi là lớn nhất thì họ vẫn luôn có lợi.
Để hiểu rõ hơn, ví dụ chúng ta hãy xem khả năng trao đổi sản phẩm giữa
Việt Nam và Nga đối với hai sản phẩm: thép và quẩn áo
(bảng 1.1)
Bảng 1.1: Chi phí sản xuất
Sản phẩm
Chi phí sản xuất(ngày công lao động)
Việt Nam Nga
Thép (1 đơn vị) 25 16
Quẩn áo (1 đơn vị) 5 4
Xét theo chi phí sản xuất thì lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không
có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga. Song nếu chúng ta xét theo chi
phí so sánh thì lại có cách nhìn khác:
Bảng 1.2: Chi phí so sánh
Sản phẩm Chi phí so sánh
Việt Nam Nga
1 đv thép/1 đv quần áo 5 4
1 đv quần áo/1 đv thép 1/5 1/4
Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao
hơn Nga: để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo, trong
khi ở Nga chỉ cần 4. Nhưng ngược lại, chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại
thấp hơn Nga: để sản xuất một đơn vị quần áo ở Việt Nam chỉ cẩn 1/5 đơn vị
thép, trong khi Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này cho thấy Việt Nam có thể xuất
khẩu quần áo sang Nga và nhập khẩu thép từ Nga. Khi đó cả hai quốc gia đều
có lợi. Một cách tổng quát, thì ta có công thức tính lợi thế so sánh như sau:
)(
)(

1.1.2.2. Lý thuyết của Heckscher – Ohlin về lợi thế tương đối
Để giải thích về lợi thế tương đối trong thương mại, thầy trò H-O đưa ra
giả thiết rằng thế giới chỉ có hai quốc gia sản xuất hai loại hàng hóa là X và Y
với chỉ hai yếu tố đầu vào là Tư bản và Lao động, trong đó X chứa nhiều lao
động còn Y chứa nhiều tư bản. Hay nói cách khác, hàng hóa Y là hàng hóa có tỷ
số Tư bản/Lao động (K/L) được sử dụn.g để sản xuất lớn hơn so với hàng hóa X
trong cả hai quốc gia.
Nếu quốc gia thứ hai có sẵn tư bản hơn quốc gia thứ nhất, thì đường giới
hạn khả năng sản xuất của quốc gia này sẽ nghiêng về trục Tư bản, và của quốc
gia thứ nhất sẽ nghiêng về trục Lao động. (Hình 1.3)
K
K
L L
Quốc gia thứ 2 Quốc gia thứ nhất
Hình 1.3 : Biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động của 2 quốc
gia
Hay nói cách khác, các quốc gia có nhiều tư bản hơn thì họ sản xuất
tương đối nhiều các sản phẩm cần nhiều vốn, và các quốc gia có nhiều lao động
sẽ sản xuất tương đối nhiều sản phẩm cần nhiều lao động.
Học thuyết của H-O đưa ra một mô hình cân bằng chung là lượng cầu về
các yếu tố sản xuất, cùng với lượng cung sẽ xác định giá cả và yếu tố sản xuất
trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Giá cả yếu tố sản xuất cùng với công nghệ
sẽ xác định giá cả của hàng hóa cuối cùng. Sự khác biệt về giá tương đối cuối
cùng của hàng hóa giữa các nước quyết định lợi thế so sánh và mô hình thương
mại, tức là nước nào sản xuất những mặt hàng gì. Ta sẽ xem xét cấu trúc cân
bằng chung của học thuyết Heckscher – Ohlin qua hình 1.4
Hình 1.4 Quá trình hình thành giá cả sản phẩm của H-O
Giá cả sản phẩm
Kỹ
thuật

Theo sơ đồ hình 1.4 trên, bắt đầu từ góc phải phía dưới của sơ đồ, ta thấy
rằng sở thích và sự phân phối theo quyền sở hữu các yếu tố sản xuất nghĩa là
phân phối thu nhập xác định nhu cầu hàng hóa. Nhu cầu hàng hóa xác định nhu
cầu dẫn xuất về yếu tố cầu để sản xuất chung. Lượng cầu về các yếu tố sản xuất,
cùng với lượng cung sẽ xác định giá cả và yếu tố sản xuất trong điều kiện cạnh
tranh hoàn hảo. Giá cả các yếu tố sản xuất cùng với công nghệ sẽ xác định giá
cả của hàng hóa cuối cùng. Sự khác biệt về giá tương đối cuối cùng của hàng
hóa giữa các nước quyết định lợi thế so sánh và mô hình thương mại, nghĩa là
nước nào sẽ sản xuất hàng hóa gì đề xuất khẩu.
Sơ đồ cũng cho thấy tất cả các lực lượng cùng với nhau quyết định giá cả
hàng hóa cuối cùng như thế nào. Do vậy ta nói rằng mô hình của Heckscher –
Ohlin là mô hình cân bằng chung. Tuy nhiên, trong số tất cả các lực lượng
tương tác này, định lý Heckscher – Ohlin tách riêng sự khác biệt về khả năng
vật chất hay khả năng cung cấp các yếu tố sản xuất giữa các nước (với sở thích
và công nghệ như nhau) để giải thích sự khác biệt về giá tương đối của hàng hóa
và thương mại giữa các nước.
Như vậy, có thể nói tóm lại về lý thuyết lợi thế so sánh của H-O qua sơ
đồ trên chính là sự khác biệt cung các yếu tố sản xuất khác nhau giữa các quốc
gia dẫn đến sự khác biệt của nhiều yếu tố khác và làm cho giá cả tương đối của
hàng hóa khác nhau, diễn ra thương mại quốc tế. Đường in đậm chính là sự
khác biệt về khả năng cung cấp tương đối các yếu tố dẫn đến sự khác nhau về
giá cả tương đối của các yếu tố và của hàng hóa.
1.1.2.3. Lý thuyết của Haberler về lợi thế tương đối
Theo quan điểm của một số chuyên gia kinh tế học thì quy luật vê lợi thế
tương đối được giải thích theo lý thuyết chi phí cơ hội đúng hơn nhiều so với
cách lý giải của David Ricardo dựa trên lý thuyết về giá trị - lao động.
Theo quan điểm của Gottfried Haberler, việc xem xét lợi thế tương đối dưới
góc độ chi phí cơ hội sẽ chính xác hơn. Theo ông, chi phí cơ hội của một hàng
hóa là số lượng các hàng hóa khác phải cắt giảm để có thêm được các tài
nguyên để có thể sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa thứ nhất. Như vậy, quốc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status