Phương pháp cấy mô/ Kỹ thuật nuôi trồng lan - Pdf 75

Phương pháp cấy mô/Kỹ thuật nuôi trồng lan Phương pháp cấy mô là phương pháp duy nhất hiện nay có
thể nhân giống lan trên qui mô công nghiệp, các cây lan con
đưược sản xuất hoàn toàn giống nhau từ một cây bố mẹ quí
mới đưược lai tạo và được xem là co giá trị sau lần trồ hoa
đầu tiên.

Ngày nay phương pháp gieo hạt chỉ đưược áp dụng dể lai giống. Các loại lan hiện tại
đều có tính dị hợp tử cao vì thế chúng sẽ không bao giờ đồng nhất. Đối với các loài
này nhiều khi chỉ sừ dụng một cây tốt duy nhất từ hàng vạn cây gieo hạt. Do đó chỉ có
cấy mô là phương
pháp có hiệu quả để sản xuất loài lan này kinh doanh:

So với phương pháp tách chiết thông thường tốc độ phát triển 1 cây/năm thì phương
pháp cấy mô sẽ sản xuất một số lượng cây con gần như không tưởng khoảng 4 triệu
cây/năm.

Phương pháp cấy mô có nhiều ưu điểm :
Đây là phương pháp nhân giống vô tính vì thế nó đảm bảo hoàn toàn đặc tính của cây
cha mẹ.
- Cây con không bị nhiễm bệnh.
- Mầm để cấy lúc nào cũng có sẵn không mất thời gian chờ đợi trái chín như cây gieo
hạt.

Tuy nhiên, việc cấy mô phơi được thực hiện với một qui trình thật nghiêm túc và tỉ mỉ,
điều kiện về trang thiết bị đầy đủ và mô chỉ phát triển trên một môi trường hoàn toàn
nhân tạo và vô trùng. .

Điều kiện nuôi cấy :

cây bắt đầu lớn, cường độ ánh sáng có thể tăng lên đến 18.OO0ml/m2 và quang kỳ
giảm xuống.

Các đèn phải đặc cách môi trường cấy 0,4 - O,5m.
+ Cách thử PH môi trưường cấy :
Độ PH của môi trường thích hợp cho mô phát triển, trong khoảng 4,8 - 5,5, thông
thường biên độ ph trong khoảng 5 - 5,2 là tốt nhất. ph của môi trường có thể thử bằng
các chất chỉ thị màu nhưư:

- Bromo cresol green (Tetrabromo-in-cresol-sun- fonphtalein) với liều lưượng O,10g
trong 7,15ml dung dịch hidroxit natri (NAOH) N/50 pha loãng nưước tới 250ml, có
màu xanh khi dung dịch trung tính, vàng cam khi ph=5,4. Ở thời điểm này nhỏ 1 - 2
giọt axitphôtphoric đậm đặc để giảm độ ph, và ph = 5,2 không nên để ph môi trường
xuống quá thấp dưưới 4,8, nếu có trường hợp này xảy ra ta tăng thêm dung dịch
hydroxit potat để tăng độ ph.

Hidroxit natri sunfonat alizirin (1g/1.OOOml nước) : có màu tím chuyển sang màu
vàng khi ph=5,2. Cong red tetrazodi - phenilaptionat natri (lg/1.OOOml nưước) : có
màu xanh ở ph=5,2.

Máy lắc :
Các kết quả về cấy mô cho biết rằng, môi trường lỏng được xáo trộn trên máy lắc có
hiệu quả hơn môi trường đặc. Tốc độ quay của máy lắc thay đổi tùy theo loài lan và
giai đoạn cấy. Trong giai đoạn đầu, nhờ bộ phận biến trở, ta điều chỉnh máy lắc với tốc
dộ 1/4 - 1/5 vòng/phút, tốc độ này nhằm mục đích làm cho môi trường dinh dưỡng hòa
đều, sau đó tốc độ tăng dần 100 vòng/phút phổ biến cho các loài, 160 vòng/phút cho
Cattleya và Dendrobium 200 - 230 vòng/phút cho Cymdium.

Thời gian của mô quay trên máy lắc có thể thay đổi tùy loài lan, thưường từ 3 - 4 tuần.


thể pha chế sẵn để dùng cho những lần kế tiếp.

+ Vật liệu cấy :
Nhờ tiến bộ về khoa học, ngày nay trên thế giới người ta có thể cấy nhiều bộ phận
khác nhau của cây lan để hình thành các thể giống protocorm (protocorm li ke bodies)
viết tắt là plbs, nhưưng thể tích của mô cấy chỉ biến đổi từ 1 - 3mm2 . Mô cấy có thể là
:

+Phân sinh mô đỉnh và phân sinh mô bên (apicamerisrtem and laterat meristem) :
Morel 1960, 1965a, 1965b, 1971. Wimber 1963. Sagawa, Shoji và Shoji, 1966, 1967.
Seully và Mohr 1967. M. Vajrabhava và T. Vajrahhaya, 1970.
+Cộng hoa (Stalk) :
- Rotor, 1949.
Savawa, Niimoto 1960.
Sagawa, 1961.
- Seully, 1965.
- Wrata và Iwanaya 1965.
- Singh và Sagawa 1972.
Intuwong, Kunisaki, Sagawa 1972.
+Đáy lá (leaf ba se) :
Champagnat, Morel Mounetou 1970.
+Đỉnh lá (leaf tip) :
- Arditti, Ball, Chu~chill 1971, 1972, 1973, 1974
Đỉnh tưược (Shoott tip) :
- Kunisaki, Kim, Sagawa 1972.
- Teo, Kunisaki, Sagawa 1973.
- Intuwong, Sagawa 1974.
+Hoa tự (Inflorescellce) :
- Intuwong, Sagawa 1973.
+Nốt (No de) :

lắc, các tế bào bị vàng ra và hình thành các plbs mới. Một số loài khác chỉ cấy chuyền
giới hạn trong một số lần nhất
định, nếu không các plbs bị hiện tượng clorotic.

Cây gieo hạt thường đưược trồng trong điều kiện vô trùng, do đó việc cấy phân sinh
mô đỉnh của chúng sẽ thực hiện dễ dàng hơn cây lớn ngoài thiên nhiên. Tuy nhiên
phương pháp này không nên áp dụng vì cây cấy mô gieo hạt chưa trổ hoa, sẽ không
cho ta biết chắc phần đặc tính của hoa và cây sẽ có, nhất là các loài lan lai mang đặc
tính dị hợp tử cao, phương pháp nhân giống vô tính từ một cây hữu tính, chưa biết đặc
tính, thì các loại hoa sẽ có trong tương lai đều mang tính chất may rủi.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status