Tài liệu Luận văn - Hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành tại Công ty Sông Đà 11 – Tổng công ty Sông Đà - Pdf 90

Tiểu luận
Hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành tại Công ty Sông Đà 11 –
Tổng công ty Sông Đà
KHƯƠNG LÊ THƯ – K35 – D2
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, chế độ hạch toán kinh tế,
kinh doanh độc lập đã áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp hoạt động trong
môi trường cạnh tranh nên các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để đứng vững
và phát triển.
Kế toán là một bộ phận cấu thành của hệ thống công cụ quản lý, điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời là công cụ đắc lực
phục vụ cho nhà nước trong công tác quản lý nền kinh tế quốc dân.
Kế toán cung cấp bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính cũng như tình
hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình cho các cấp lãnh đạo, các bộ phận
biết được quá trình sản xuất kinh doanh. Các báo cáo kế toán cũng giúp cho các
cấp lãnh đạo, các bộ phận bbiết được quá trình kinh doanh của đơn vị mình có
hiệu quả hay không. Đồng thời thông qua những báo cáo do phòng tài chính kế
toán cung cấp, Giám đốc thấy được ưu, nhược điểm của Công ty, thấy được
những khả năng tiềm tàng của Công ty từ đó đưa ra những biện pháp phù hợp
nâng cao hiêụ quả trong quá trình kinh doanh để thu được lợi nhuận nhiều hơn
nữa.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
là tự trang trải và có lãi. Bởi vậy hạ giá thành – nâng cao chất lượng sản phẩm
là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp.
Muốn hạ giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải có những biện pháp hạ
thấp chi phí sản xuất thông qua việc sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, sử dụng
tối đa công suất máy móc trang thiết bị và không ngừng nang cao năng suất lao
động.
Với vai trò là người trực tiếp tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu xã
hội, các doanh nghiệp sản xuất luôn tìm mọi biện pháp tiết kiẹm chi phí sản

trính sản xuất, đó là : Tư liệu lao động, đối tượng lao động và lao động sống.
Đồng thời trong quá trình SX hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của
chính bản thân các yêú tố trên.
Vậy để tiến hành SX sản phẩm người ta phải bỏ chi phí về thù lao lao động
về tư liệu lao động, đối tượng lao động.Vì thế hình thành nên các CPSX để tạo
ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của người sản xuất.
Mặc dù các loại hao phí bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm
nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau, trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hoá -
tiền tệ thì chúng vẫn được biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Vậy chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà Doanh
nghiệp phải tiêu dùng trong một thời kỳ để thực hiện quá trình sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm.
Ngành xây dựng cũng như các ngành khác, chi phí sản xuất của đơn vị xây
lắp, xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá
phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp.
Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn, dịch chuyển của các yếu tố sản
xuất vào đối tượng tính giá (sản phẩm công trình và hạng mục công trình).
Về mặt lượng chi phí sản xuất phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Khối lượng sức lao động và tư liệu sản xuất được chia ra trong một thời
kỳ nhất định.
- Giá cả tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiền lương
của một đơn vị lao động đã hao phí.
4
KHƯƠNG LÊ THƯ – K35 – D2
1.2 Phân loại chi phí sản xuất:
Trong Doanh nghiệp xây dựng, các chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại,
nhiều khoản khác nhau cả về nội dung tính chất, công dụng, vai trò, vị trí...yêu
cầu quản lý với từng loại chi phí cũng khác nhau. Việc quản lý tài chính, quản
lý sản xuất, quản lý chi phí sản xuất không thể chỉ dựa vào số liệu phản ánh

KHƯƠNG LÊ THƯ – K35 – D2
- Chi phí khấu hao TSCĐ : Là toàn bộ số tiền khấu hao TSCĐ phải trích
trong kỳ của tất cả các loại TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
trong kỳ của doanh nghiệp.
- Chi phí dich vụ mua ngoài : Là số tiền trả về các loại dịch vụ mua ngoài
phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Chi phí bằng tiền khác : Là toàn bộ chi phí khác bằng tiền phát sinh
trong quá trình hoạt động sản xuất , kinh doanh ngoài các yếu tố trên.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này có tác dụng cho biết kết cấu, tỷ
trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính (phần chi phí sản
xuất kinh doanh theo yếu tố) phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị doanh
nghiệp, phục vụ cho việc xây dựng phân tích định mức vốn lưu động, lập kiểm
tra và phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí , lập dự toán chi phí sản
xuất, kinh doanh cho kỳ sau. Nó là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ để xác
định mức tiêu hao vật chất và thu nhập quốc dân.
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mục đích, công dụng của chi
phí :
Theo các phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp :
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Là chi phí của các loại vật liệu chính,
vật liệu phụ kết cấu nên giá trị thiết bị kèm theo vật kiến trúc .. cần thiết để tạo
nên sản phẩm xây lắp .
- Chi phí nhân công trực tiếp : Là các khoản chi phí về lương chính, các
khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương của công nhân trực tiếp tham gia vào
xây lắp công trình, hạng mục công trình.
- Chi phí sử dụng máy thi công : Là các chi phí liên quan đến việc sử
dụng máy để hoàn thành sản phẩm xây lắp. Chi phí này bao gồm : tiền khấu
hao máy móc thiết bị, thuê máy, tiền lương công nhân vận hành máy thi công,
chi phí về nhiên liệu động lực dùng cho máy thi công... để tiến hành xây lắp

nhất định.
2. Giá thành sản phẩm .
2.1 Bản chất nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm .
Các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm luôn luôn được biểu hiện ở mặt
định tính và mặt định lượng, đó vừa là mục đích cuối cùng của quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Để xây dựng nên một công
trình, hạng mục công trình .. thì doanh nghiệp phải xây dựng, phải đầu tư vào
quá trình sản xuất thi công một lượng chi phí nhất định. Những chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình thi công đó luôn luôn được biểu hiện ở mặt
định tính hay định lượng.
- Mặt định tính của chi phí đó là các chi phí hiện vật hay bằng tiền tiêu
hao trong quá trình sản xuất, thi công công trình hoàn thành.
7
KHƯƠNG LÊ THƯ – K35 – D2
- Mặt định lượng của chi phí thể hiện mức độ tiêu hao cụ thể của từng
loại chi phí tham gia vào quá trình sản xuất , thi công công trình hoàn thành
được thể hiện bằng thước đo giá trị.
- Mục đích của sản xuất kinh doanh hay nói cách khác mục đích chi phí
của doanh nghiệp tạo nên những giá trị sử dụng nhất định để đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, vấn đề quan tâm trước hết đối với
các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm là lợi nhuận - Đó vừa là nguyên nhân, vừa
là mục đích cuối cùng của quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
doanh nghiệp. Để xây dựng nên một công trình, hạng mục công trình thì doanh
nghiệp xây dựng phải đầu tư vào quá trình sản xuất , thi công một lượng chi phí
nhất định, đồng thời các doanh nghiệp cũng rất quan tâm đến hiệu quả của chi
phí bỏ ra ít nhất, thu được giá trị sử dụng lớn nhất và luôn tìm mọi biện pháp hạ
thấp chi phí nhằm mục đích thu được lợi nhuận tối đa.
Những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình thi công
công trình nào thì sẽ tham gia cấu thành nên giá của công trình đó.

- Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập
thuần tuý của xã hội như : BHXH, BHYT, các khoản trích nộp cấp trên, thuê
vốn, thuê tài nguyên.
- Một số khoản mục chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành của
từng loại sản phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp.
2.2 Phân loại giá thành sản phẩm.
Giá thành hạng mục công trình hoặc công trình hoàn thành là giá thành
sản phẩm cuối cùng của sản phẩm xây lắp.
Giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động của
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng cường năng suất lao động,
tiết kiệm vật tư, hoàn thiện kỹ thuật thi công, giảm thời gian thi công, sử dụng
hợp lý vốn sản xuất vv.. Đều ảnh hưởng trực tiếp đến mức hạ giá thành sản
phẩm.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá
thành cũng như yêu cầu xây dựng giá thành công trình, hạng mục công trình
được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Trong
xây lắp, xây dựng cơ bản cần phân biệt các loại giá thành như sau :
* Theo thời điểm, nguồn số liệu để xác định, chỉ tiêu giá thành được phân
thành:
+ Giá thành dự toán:
Giá thành dự toán là giá thành được lập trước khi sản xuất , là tổng số chi
phí tính toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình
và đã được xác định trên cở sở định mức và khung giá quy định cho từng loại
công việc, áp dụng theo từng vùng, lãnh thổ.
Do sản phẩm xây dựng có giá trị lớn, thời gian thi công dài mang tính đơn
chiếc, nên mỗi công trình, hạng mục công trình đều có giá trị dự toán riêng.
9
KHƯƠNG LÊ THƯ – K35 – D2
Căn cứ vào giá thành dự toán của từng công trình, hạng mục công trình ta có
thể xác định được giá thành dự toán của chúng.

xây lắp
-
Mức hạ giá
thành dự toán
(tính cho từng công trình, hạng mục công trình )
+ Giá thành thực tế công tác xây lắp :
Giá thành thực tế là chỉ tiêu được lập sau khi kết thúc quá trình sản xuất
sản phẩm trên cơ sở toàn bộ các hao phí thực tế liên quan để hoàn thành công
trình, hạng mục công trình, khối lượng xây lắp mà đơn vị đã nhận thầu. Giá
thành thực tế công tác xây lắp được xác định theo số liệu kế toán cung cấp.
Đặc điểm sản phẩm xây dựng là thi công kéo dài, do vậy để tạo điều kiện cho
việc theo dõi chặt chẽ những chi phí phát sinh người ta phân chia giá thành
thực tế thành : Giá thành công tác xây lắp thực tế, và giá thành công trình hoàn
thành và hạng mục công trình hoàn thành.
10
KHƯƠNG LÊ THƯ – K35 – D2
+ Giá thành công tác xây lắp thực tế phản ánh giá thành của một khối
lượng công tác xây lắp đạt đến một thời điểm kỹ thuật nhất định, nó cho phép
chúng ta xác định kiểm kê kịp thời, sát sao về chi phí phát sinh và đồng thời
phát hiện được những nguyên nhân gây tăng hay giảm chi phí.
+ Giá thành công trình, hạng mục công trình hoàn thành là toàn bộ chi phí
chi ra để tiến hành thi công một công trình, hạng mục công trình kể từ khi khởi
công trình cho đến khi kết thúc đưa công trình vào sử dụng và được chủ đầu tư
(bên A) chấp nhận.
Giá thành thực tế công tác xây lắp không chỉ bao gồm những chi phí trong
định mức mà còn có thể bao gồm chi phí thực tế phát sinh không cần thiết như:
thiệt hại phá đi làm lại, thiệt hại ngừng sản xuất, mất mát, hao hụt vật tư, ... do
những nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp.
* Theo phạm vi phát sinh chi phí: Giá thành được phân thành giá thành
sản xuất và giá thành toàn bộ.

tư nghiệm thu chấp nhận thanh toán.
. Phải đạt đến điểm dựng ký thuật hợp lý.
Giá thành khối lượng hoàn thành quy ước phản ánh được kịp thời CPSX
cho đối tượng xây lắp trong quá trình thi công xây lắp trong quá trình thi công
xây lắp, từ đó giúp Doanh nghiệp phân tích kịp thời các chi phí đã chi ra cho
từng đối tượng để có biện pháp quản lý thích hợp và cụ thể. Nhưng nó lại
không phản ánh được một cách toàn diện, chính xác giá thành toàn bộ công
trình, hạng mục công trình. Do đó, để đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về quản lý
giá thành là kịp thời, chính xác, toàn diện và có hiệu quả thì phải sử dụng cả
hai chỉ tiêu trên.
3 - Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Gắn liền với chi phí sản xuất là giá thành sản phẩm. Có thể nói chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. CPSX
thể hiện sự tiêu hao về các chi phí trong kỳ sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả thu được về các loại chi
phí đã bỏ ra trong kỳ của Doanh nghiệp.
CPSX, GTSP có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng có thể thống nhất
hoặc không thống nhất với nhau. Nó phụ thuộc vào CPSXDD đầu kỳ và
CPSXDD cuối kỳ.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa CPSX và GTSP qua sơ đồ sau:
Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất phát Chi phí sản xuất
dở dang đầu kỳ sinh trong kỳ dở dang cuối kỳ

Trong đó: AC: Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của công tác xây lắp thống nhất
trong trường hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là công trình,
hạng mục công trình được hoàn thành trong kỳ tính giá thành hoặc giá trị khối
lượng công việc xây lắp dở dang đầu kỳ và cuối kỳ đều bằng nhau.
Xét về mặt chất thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là những
hao phí lao động sống và lao động vật hoá để sản xuất và hoàn thành sản phẩm


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status