Tài liệu Bệnh vàng lùn hại lúa tại đồng bằng sông Cửu Long - Pdf 96

Bệnh vàng lùn hại lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: khuyennongvn.gov.vn
I. Tình hình chung:
Triệu chứng "vàng và lùn" cây lúa là một dạng đặc trưng của một bệnh do
virut hoặc mycoplasma gây ra do rầy xanh đuôi đen (Nephottetis virescens và
Nephotettis nigropictus) là môi giới truyền bệnh. Triệu chứng như vậy đã được ghi
nhận từ những năm 1964 đến 1969 ở Philippines, Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan,
Indonesia và Nhật Bản. Bệnh được gọi là "Tungro" nếu tác nhân là do virút ở 2
dạng gọi là RTSV (Rice Tungro Spherical Virus) và dạng RTBV (Rice Tungro
Bacilliform Virus), nhưng nếu tác nhân là mycoplasma thì gọi là bệnh "Vàng lụi".
Ở Miền Bắc Việt nam, bệnh dược ghi nhận lần đầu trong những năm 1964, 1966
và 1970 trên giống Mộc Tuyền với diện tích gây hại khá lớn khoảng 50.000 ha,
bệnh Tungro xuất hiện đầu tiên ở Việt nam trong vụ Hè thu 1990 ở vùng ven biển
miền Trung như Khánh Hoà, Bình Định và Phú Yên và gây hại vào khoảng 20.000
ha, (Ngô vĩnh Viển và CTV, 1994)
Một số bệnh trên lúa do virut gây ra nếu rầy nâu là môi giới truyền bệnh, có
2 dạng phổ biến là Lùn xoắn lá (RRSV-Rice Ragged Stunt Virus) và Lùn Lúa Cỏ
(RGSV-Rice Grassy Stunt). Bệnh lùn xoăn lá (LXL) do rầy nâu truyền có triệu
chứng rất đặc trưng là cây lúa sau khi bị nhiễm sẽ bị lùn hẳn, đẻ ít chồi và đặc biệt
là lá bị xoăn lại, bông ngắn hoặc trổ không thoát đó là Lùn xoăn lá, rất phổ biến
hầu hết bà con nông dân đều biết và gọi đúng tên. Đối với bệnh Lùn lúa cỏ (LLC)
thì ngược lại, sau khi cây lúa bị nhiễm bệnh do rầy nâu chích hút và truyền bệnh
thì bụi lúa có khuynh hướng bị lùn hẳn và đặc trưng là đẻ rất nhiều chồi như bụi
cỏ, trên dồng ruộng, bệnh LLC thường có tỉ lệ xuất hiện ít hơn bệnh LXL.
Hai bệnh LXL và LLC đã được ghi nhận xuất hiện ở ĐBSCL từ những năm
1977, nhất là sau mỗi trận dịch rầy nâu. Tuy nhiên hàng năm 2 bệnh nầy vẫn xuất
hiện trên đồng ruộng với tỉ lệ rất thấp. Như vậy nếu môi giới truyền bệnh là rầy
nâu thì cho đến nay chỉ có hai bệnh là LXL và LLC mà triệu chứng đặc trưng như
đã mô tả, vẫn chưa có ghi nhận nào mới.
II. Triệu chứng bệnh vàng lùn, bệnh mới gây hại trên lúa

nên chỉ tiến hành thu thập mẫu bệnh và gửi sang Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế
IRRI, Philippines, do Tiến sĩ Ossmat Azzam, của bộ môn Bệnh cây thực hiện, từ
tháng 4-1996 đến tháng 1-1997, trong tổng số 163 mẫu, có phản ứng dương tính
với 3 loại virut RTBV, RTSV (Tungro) và Lùn xoăn lá RRSV với tỉ lệ rất thấp 4
mẫu/140.
Tháng 1-2005, Tiến sĩ R.C. Cabunagan và I.R. Choi, 2 nhà virus học của
Viện IRRI sang thu thập mẫu, kết quả phân tích cho thấy trong số 52 mẫu lúa bị
bệnh, chỉ có 1 mẫu có phản ứng dương tính với RTSV (tungro), và 7 mẫu với bệnh
Lùn lúa cỏ (RGSV). Trong thời gian nầy có lẽ mật số rầy mang virút còn rất thấp,
cũng có lẽ do số mẫu thu chưa được đại diện cho tất cả các vùng và các giống, tuy
nhiên cũng cho thấy bệnh có chiều hướng gia tăng
Tháng 3-2006, trước khi có dịch xãy ra, Viện lúa có hợp tác thêm với Viện
Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Quốc gia, Suwon, Korea cùng sang lấy mẫu và
tiếp tục thực hiện các giám định về bệnh bằng PCR và thực hiện giải mã
(sequencing). Kết quả về kháng huyết thanh cho thấy có nhiều triển vọng để có thể
đi đến những kết luận bước đầu. Kết quả mẫu bệnh vàng lùn thu thập được tại
Tiền Giang do Trung Tâm BVTV Phía nam hướng dẩn và lấy mẫu, Chi Cục
BVTV An Giang hướng dẩn và thu mẫu: 2 mẫu/30 có phản ứng với Tungro
RTSV, 27/30 mẫu có phản ứng với Lùn lúa cỏ, 19/30 mẫu có phản ứng với Lùn
xoăn lá trên cùng cây lúa bị bệnh.Như vậy trong thời gian nầy tỉ lệ mẫu có phản
ứng dương tính với 3 loại virút tăng rất cao.
Đầu vụ Hè thu 2006 dịch bệnh xãy ra và có mức lan rộng đến hầu hết các
tỉnh ĐBSCL, với mật số rầy nâu rất cao, diện tích bị nhiễm bệnh vàng lùn riêng tại
Đồng Tháp với thiệt hại < 30 % là 613 ha, và > 30 % là 2636 ha trong đó thiêu
huỷ khoảng 500 ha. Trong thời gian nầy tỉ lệ rầy mang virút có lẽ rất cao, thường
thì trong những trận dịch rầy có thể mang virút đến 70 % (OU, 1984)
IV. Kết luận
Như vậy sau gần hơn thập niên xuất hiện và nhiều năm nghiên cứu, cho đến
bây giờ chúng ta có thể kết luận bước đầu: Bệnh VL là một bệnh mới do sự phối
trộn của 3 loại virut là LLC, LXL truyền bệnh do rầy nâu và Tungro do rầy xanh

rạ chết hẳn, diệt mầm virút tồn tại trong trong gốc rạ
3. Không trồng giống nhiễm rầy, nhiễm virút trên diện rộng, cần lưu ý là
giống bị nhiễm rầy và nhiễm virút theo 2 cơ chế khác khau, giống kháng rầy vẫn
có thể nhiễm virút và ngược lại do vậy cần có phương pháp trắc nghiệm trong nhà
lưới về cả 2 chỉ tiêu: Rầy và virút trước khi phóng thích thì mới bảo đảm không tái
nhiễm và dịch bệnh xãy ra.Trên ruộng thí nghiệm và sản xuất hiện nay cho thấy rõ
các trường hợp nầy, giống OM4498 có thể chống chịu được cả 2 dạng trên, một số
dòng khác có phản ứng nhiễm nhẹ (20 % <). Tuy nhiên Viện lúa cần tiếp tục theo
dõi phản ứng chống chịu của giống đối với 2 tác nhân trên
4. Gieo sạ đồng loạt trên diện rộng lớn, nhằm hạn chế di chuyển của quần
thể rầy, do chuyển tiếp nguồn thức ăn cho nên rầy mang virút lây lan ra diện rộng,
do vậy không nên gieo trồng rãi rác có liên quan đến vụ 3, chỉ nên tập trung 2 vụ.
Dịch bệnh vàng lùn có liên quan mật thiết đến thời vụ gieo sạ liên tục trên ruộng,
cả không gian và thời gian đều tối hảo để dịch bệnh phát tán
5. Tăng cường sức đề kháng của lúa đối với virút, sử dụng một số chất kích
kháng có thể hạn chế sự phát triển của virút trong cây lúa như K2HPO4, CuCl2
cho xử lý hạt, Humid acid (Risopla V) 1-1,5 kg/ha bón lót thì càng tốt.
6. Giống kháng là biện pháp có hiệu quả kinh tế nhất, tuy nhiên công tác
thanh lọc giống kháng là khá phức tạp.
7. Sử dụng thuốc hóa học có thể làm giảm mật số rầy nhưng vẫn không thể
giải quyết được bệnh vàng lùn, vì sự truyền bệnh có thể xãy ra giửa rầy-và cây lúa
trong khoảng thời gian rất ngắn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status