Tài liệu Đề tài "TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG PHÁP CHẾ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TỪ THỰC TIỄN CỦA NGÂN HÀNG ĐÔNG Á" - Pdf 97



Đề tài "TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA
PHÒNG PHÁP CHẾ
TRONG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TỪ THỰC TIỄN
CỦA NGÂN HÀNG
ĐÔNG Á"
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG PHÁP
CHẾ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TỪ THỰC TIỄN CỦA NGÂN HÀNG ĐÔNG Á
NGUYỄN TIẾN MẠNH – PHÒNG PHÁP CHẾ NGÂN HÀNG ĐÔNG Á
CHƯƠNG I :
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ SỰ CẦN
THIẾT THÀNH LẬP PHÒNG PHÁP CHẾ.
1.1 Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần.
Trước năm 1990, về cơ bản hệ thống ngân hàng Việt Nam tồn tại theo mô hình một cấp,
gắn với những đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo mô hình này, Ngân hàng
nhà nước Việt Nam là pháp nhân duy nhất hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, vừa với
tư cách là cơ quan quản lí nhà nước về ngân hàng, vừa tiến hành các hoạt động của ngân
hàng trung ương trên lãnh thổ Việt Nam đồng thời cũng kiêm luôn chức năng của một
ngân hàng thương mại, tức là huy động vốn và cho vay đối với khu vực kinh tế quốc
doanh và khu vực kinh tế tập thể. Mô hình này không có sự tách bạch rõ ràng giữa chức
năng quản lí nhà nước về ngân hàng của ngân hàng nhà nước với chức năng kinh doanh
ngân hàng của ngân hàng thương mại. Vì vậy,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai

việc tiếp thu có chọn lọc các quy định hợp lí của pháp luật nước ngoài, pháp luật ngân
hàng Việt Nam cũng thừa nhận sự tồn tại có tính cách tạm thời của một số quy định đặc
thù trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi, chẳng hạn như việc duy trì vai trò chủ đạo của
các ngân hàng thương mại nhà nước trong một giai đoạn nhất định; quy định chức năng
quản lí nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với hệ thống ngân hàng…
Sau gần hai mươi năm xây dựng các thiết chế và khung khổ pháp lí cho một nền kinh tế
thị trường từ nền tảng của một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, pháp luật ngân
hàng Việt Nam dù chưa được hoàn thiện nhưng sự thừa nhận các nguyên tắc của thị
trường trong việc thiết kế các quy định về mô hình tổ chức và hoạt động nghiệp vụ của
ngân hàng trung ương cũng như các định chế tài chính trung gian ở Việt Nam, có thể xem
như là một bước tiến lớn trong tư duy pháp lí của các nhà soạn luật.
1.2 Sự cần thiết thành lập phòng pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, việc đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đúng pháp luật, phòng tránh rủi ro pháp lý trong kinh doanh là vô cùng quan
trọng. Vì vậy, vai trò của các cố vấn pháp lý trong doanh nghiệp ngày càng được củng cố
và xem trọng. Cố vấn pháp lý của doanh nghiệp có thể là các luật sư tư vấn, chuyên gia
pháp lý hoặc tổ chức pháp chế trong doanh nghiệp. Đó là những nhân tố đảm bảo tính an
toàn pháp lý trong kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các nước phát triển, quá trình
hoạt động của doanh nghiệp không thể thiếu bóng dáng của các cố vấn pháp lý.
Ở nước ta vai trò của các cố vấn pháp lý đối với hoạt động của doanh nghiệp trước đây
chưa được các doanh nghiệp quan tâm. Trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh,
thương mại chịu áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nhiều doanh nghiệp đã tăng cường và củng cố vai
trò của các cố vấn pháp lý trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, vai trò của các cố vấn
pháp lý chỉ mới được các doanh nghiệp ở những thành phố lớn quan tâm, còn các doanh
nghiệp ở những tỉnh thành khác thì hầu như không để ý đến.Thời gian qua chúng ta đã có
một số vụ tranh chấp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có tính chất
quốc tế và phần thua thiệt đa số nghiêng về phía các doanh nghiệp Việt Nam. Nguyên
nhân dẫn đến những rủi ro pháp lý của các doanh nghiệp trong thời gian qua là không am
hiểu pháp luật và thông lệ quốc tế, thậm chí có doanh nghiệp không nắm được quy định

Minh về việc xây dựng, củng cố tổ chức pháp chế tại các sở, ngành của thành phố…) và
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp thì tổ chức pháp chế có vai trò hết sức
quan trọng và cần phải đươc thành lập.
Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ – ngân hàng của Việt Nam
phát triển mạnh mẽ. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ – ngân hàng được đánh giá là
cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Lợi nhuận trên vốn tự có, thách thức lớn nhất đối
với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy
mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước
trong khu vực. Ngoài ra, tại cuộc tọa đàm lấy ý kiến về dự thảo nghị định khuyến khích
các tổ chức dịch vụ tư vấn pháp luật, phát triển hoạt động tư vấn pháp luật để đáp ứng
yêu cầu của doanh nghiệp (Tổ chức này được tạo điều kiện tiếp cận thông tin pháp lý,
tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ tư vấn pháp luật cho
doanh nghiệp) vào sáng 27/4/2008, đại diện Bộ Tư pháp đã đưa ra con số “giật mình” sau
một cuộc khảo sát: 50-80% doanh nghiệp phải nhờ cậy các mối quan hệ với cơ quan nhà
nước hoặc phải có sự hỗ trợ của bạn bè và người thân mới tiếp cận thông tin (trong đó có
thông tin pháp lý) . Kết quả điều tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc cũng cho
thấy, khoảng 70-80% trong số gần 1.300 doanh nghiệp không hiểu hoặc hoặc hiểu không
đầy đủ pháp luật về kinh doanh
Bộ Tư pháp cho biết, nhận thức pháp luật của nhiều chủ doanh nghiệp còn hạn chế.
Không chỉ doanh nghiệp mới thành lập mà cả ở những đơn vị hoạt động đã lâu, tình trạng
phổ biến là người quản lý không nắm được các quy định cơ quy định cơ bản về pháp luật
kinh doanh. Việc này đặc biệt nghiêm trọng ở các địa phương ngoài Hà Nội và Thành
Phố Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân của vấn đề trên được nhìn nhận là do người quản lý doanh nghiệp, kể cả
các doanh nghiệp lớn, thuộc sở hữu nhà nước chưa chú trọng việc áp dụng, thực hiện
pháp luật. Nó ảnh hưởng, gây ra những rủi ro trong kinh doanh.
Mọi hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh ngân hàng nói riêng đều phải tuân
theo quy định của pháp luật. Hoạt động của các ngân hàng thương mại liên quan đến rất
nhiều lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn; vì vậy, cũng yêu cầu thực hiện nhiều quy định của
pháp luật. Ngân hàng cũng là một lĩnh vực nhạy cảm và quan trọng trong nền kinh tế. Do

động quản lý và kinh doanh của ngân hàng đều thực hiện đúng các quy định của pháp
luật. Từ đó giảm thiểu rủi ro pháp lý và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của ngân
hàng.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mức độ không vi phạm điều cấm của pháp luật thì chưa đủ.
Với hệ thống công nghệ thông tin hiện nay, việc tra cứu các quy phạm pháp luật liên
quan đến kinh doanh, nhất là quy định cấm đoán, không phải là điều quá khó khăn. Điều
đó chỉ là đòi hỏi nhân viên pháp chế ở mức trung bình khá. Thực tế cuộc sống và kinh
doanh đòi hỏi nhiều hơn thế.
Pháp luật là sự bó buộc, là khuôn khổ, là công thức cứng nhắc. Còn kinh doanh là sự tự
do, là sáng tạo, là thiên biến vạn hoá. Nhân viên pháp chế trong hoạt động ngân hàng
đóng vai trò là “nhịp cầu” giữa pháp luật và kinh doanh, biến bó buộc thành tự do, đổi
khuôn khổ thành sáng tạo, chuyển công thức cứng nhắc thành thiên biến vạn hoá, muôn
hình vạn trạng. Pháp luật về cơ bản chỉ lo rào trước, chặn sau, vành vạnh vẹn tròn. Kinh
doanh trên thực tế thì lại có xu hướng phá rào, mở lối, gồ ghề góc cạnh. Nhân viên pháp
chế trong hoạt động kinh doanh là người đứng giữa, giúp các nhà quản trị, điều hành
ngân hàng đưa pháp luật vào thực tế hoạt động kinh doanh một cách đơn giản, hợp lý,
hiệu quả và an toàn nhất.
Thực hiện pháp luật là mất chi phí, tiến hành kinh doanh là được lợi nhuận. Nhân viên
pháp chế trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là phải tham gia vào dây chuyền tiết
giảm và biến đổi chi phí thành lợi nhuận. Trong hoạt động kinh doanh, nếu chỉ đưa ra
nguyên lý kiểu công thức đúng cho mọi trường hợp “cứ đúng pháp luật mà làm”, “cứ sai
pháp luật mà tránh”, thì chưa nói lên điều gì cả, thậm chí như thế là khó có thể kinh
doanh một cách bình thường được trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế và bước đầu hoàn
thiện hệ thống pháp luật hiện nay. Để hoạt động kinh doanh cạnh tranh và tồn tại được
trên thương trường, đòi hỏi nhân viên pháp chế phải “giải mã” các trường hợp không rõ
cấm, cũng chẳng biết có được làm hay không. Một số điều luật tưởng rằng là cấm kỵ,
nhưng thực ra lại là được. Và ngược lại, có những điều luật không hề cấm, nhưng có khi
vẫn là “kỵ”. Vì trên thực tế còn vô vàn những điều luật mâu thuẫn, chồng chéo, phức tạp,
rối rắm, khó hiểu. Hoạt động kinh doanh cũng như con người, cũng giống cuộc sống, có
đúng, có sai. Trong khi đó, mỗi quyết định kinh doanh hay văn bản giao dịch không đơn

pháp của ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và những vấn
đề khác liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
· Tham gia bảo vệ quyền lợi của ngân hàng trong việc tố tụng giải quyết tranh chấp tại
các Tòa án, Trọng tài kinh tế hoặc các cơ quan khác ở trong và ngoài nước trên cơ sở
pháp luật.
· Thu thập tài liệu, xác minh để đề xuất, kiến nghị và kết luận về mặt pháp lý đối với
những vụ việc, bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng trước cơ quan tư pháp hoặc các cơ quan
Nhà nước khác khi được tổng giám đốc giao.
1.4.2 Soạn thảo các loại văn bản trong hoạt động của ngân hàng
Phòng pháp chế có nhiệm vụ dự thảo các hợp đồng theo sự phân công của Ban Tổng
giám đốc ngân hàng tham gia quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng và có ý kiến về mặt
pháp lý đối với các văn bản hợp đồng đó. Và tham gia ý kiến về mặt pháp lý đối với dự
thảo hợp đồng, văn bản do các đơn vị khác của ngân hàng chủ trì soạn thảo trước khi
trình Tổng giám đốc ngân hàng. Đồng thời, tham gia soạn thảo, xây dựng các văn bản,
quy chế liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Phòng pháp chế có nghĩa vụ xem xét, kiểm tra sau đó đưa ra ý kiến và chịu trách nhiệm
về mặt pháp lý đối với dự thảo cuối cùng của các văn bản trước khi trình Tổng giám đốc
ký ban hành. Bên cạnh đó, còn phải tiến hành rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng; Kiến nghị việc tạm đình chỉ, đình
chỉ thi hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ những quy định của ngân hàng trái pháp luật
hoặc không còn phù hợp.
1.4.3. Các hoạt động khác (Tham mưu về chế độ chính sách, tham gia tuyển dụng,
kỷ luật, các hội đồng khác)
Phòng pháp chế thực hiện một số hoạt động khác như:
- Tư vấn cho ban Tổng Giám đốc Ngân hàng về những vấn đề pháp lý liên quan đến tổ
chức, quản lý và hoạt động của ngân hàng, kiến nghị với ban Tổng giám đốc về mặt pháp
luật những vấn đề cần được hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung, xây dựng và hoàn thiện trong tổ
chức và hoạt động của toàn ngân hàng.
- Chủ trì hoặc phối hợp với các tổ chức, cơ quan hữu quan thực hiện các hoạt động thông
tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và nội quy, quy chế của ngân hàng cho cán

Tổng giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm trưởng và phó phòng pháp chế đồng thời quy định
chế độ phân công về trách nhiệm, quy trình làm việc và mối quan hệ công tác của phòng
pháp chế để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của phòng đồng thời triển khai hoạt động tại
hội sở khi có quyết định, chủ trương mới đề ra.
Trong công việc, nhân viên phòng pháp chế chịu trách nhiệm trước trưởng phòng, trưởng
phòng chịu trách nhiệm trước Ban Tổng giám đốc, hội đồng quản trị và pháp luật.
Trưởng phòng pháp chế là người có quyền điều hành cao nhất tại phòng pháp chế, là
người đại diện cho Phòng trong quan hệ với Ban Tổng giám đốc, hội đồng quản trị.
Giúp việc cho trưởng phòng có một phó phòng điều hành công việc theo sự phân công
của trưởng phòng, Ban tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trực tiếp trước trưởng phòng,
Ban Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Phó phòng sẽ thay mặt
trưởng phòng tổ chức điều hành và ký các giấy tờ liên quan thuộc lĩnh vực được phân
công trong thời gian trưởng phòng đi vắng hoặc bận công tác khác.
Toàn thể cán bộ, chuyên viên phòng pháp chế được quyền tham mưu, đề xuất ý kiến giải
quyết công việc với trưởng phòng. Mọi thành viên đều có quyền bình đẳng với nhau
trong công việc và thực hiên theo đúng quy đinh của ngân hàng.
1.5.2 . Với các phòng ban và chi nhánh
Tùy từng vấn đề và thừa lệnh ban Tổng giám đốc trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, phòng Pháp chế được quyền yêu cầu các cá nhân, đơn vị có liên quan cung
cấp thông tin, tài liệu, hồ sơ cần thiết, trừ những thông tin bảo mật thuộc phạm vi quản lý
của hội đồng quản trị hoặc của Ban Tổng giám đốc. Phòng pháp chế trực tiếp hoặc phối
hợp với các đơn vị có liên quan tham gia ý kiến về việc xử lý các vi phạm pháp luật, các
vi phạm quy chế quản lý nội bộ của ngân hàng và việc áp dụng các biện pháp khắc phục
trong toàn ngân hàng trình Ban Tổng giám đốc các biện pháp xử lý. Đồng thời, thực hiện
các nhiệm vụ khác do Ban Tổng giám đốc ngân hàng giao.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG PHÁP CHẾ TRONG
NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của phòng pháp chế trong ngân hàng thương

nhánh cần bảo mật những thông tin nhất định. Đó có thể là những quyết định, những kế
hoạch, thông tin liên quan đến khách hàng chỉ có thể tiết lộ vào một thời điểm cần thiết.
Thứ tư, việc cử cán bộ pháp lý từ Hội sở chính xuống giải quyết công việc tại chi nhánh
sẽ tồn tại tình trạng ỷ lại, bị động của cán bộ tại chi nhánh. Hơn nữa, khi đó mang tâm lý
sẽ có người giải quyết thay nên cán bộ pháp lý tại chi nhánh sẽ thiếu sự chủ động, linh
hoạt và tự giác để giải quyết công việc. Tuy vậy, để xây dựng một bộ phận pháp lý có
chất lượng cũng không dễ dàng.
Nguyên nhân của tình trạng cán bộ pháp chế chưa làm tốt chức năng vai trò của mình là
do một số nguyên nhân sau:
· Hầu hết cán bộ pháp chế tại các chi nhánh thiếu kinh nghiệm làm việc. Họ tốt nghiệp tại
các trường Đại học Luật nhưng chưa có kinh nghiệm làm thực tế trong các hoạt động tài
chính ngân hàng. Vì thế, mặc dù đã được đào tạo ở trường Đại học, nhưng lĩnh vực tài
chính ngân hàng vẫn còn phức tạp với họ. Các thuật ngữ như nội bảng, ngoại bảng, ngoại
hối, đáo hạn, ân hạn, hạn mức… không dễ gì hiểu hết trong ngày một ngày hai. Họ cần
được tham gia một lớp đào tạo lại chuyên về hoạt động ngân hàng.
· Đa phần các cán bộ pháp lý không làm việc chuyên trách các vấn đề pháp lý mà thường
kiêm nhiệm những công việc khác như công việc của phòng tổng hợp, phòng quản lý rủi
ro, phòng hành chính. Vì thế, thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu và cập nhật tài liệu cũng
bị hạn chế.
Thiếu tài liệu, văn bản luật. Các chi nhánh thường không trang bị đầy đủ các văn bản tài
liệu luật luật cho các cán bộ. Ngoài các tài liệu bằng văn bản, họ cũng cần được trang bị
phần mềm để có thể cập nhật hàng ngày các văn bản mới. Việc cập nhật và nghiên cứu
văn bản pháp luật là rất quan trọng, ngoài việc nắm rõ nội dung các văn bản, người phụ
trách pháp lý cần biết văn bản nào đang có hiệu lực vì các văn bản luật thay đổi thường
xuyên.
· Thiếu kinh nghiệm cọ xát. Cán bộ pháp lý ít có cơ hội tham gia vào các phiên toà xét xử
các vụ việc mà ngân hàng là đương sự. Họ cũng ít có dịp tiếp xúc, làm việc với khách
hàng mà chủ yếu lấy thông tin qua cán bộ tín dụng.
· Việc tham gia phiên toà là rất quan trọng, vì ngoài việc nâng cao kỹ năng tranh luận thì
những lập luận, phán quyết của toà án thường mang tính “chuẩn”, “mẫu” rất cao, có thể

Hiện tại, Phòng pháp chế ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á đang khuyết chức danh
trưởng phòng, chỉ có phó phòng và ba nhân viên,. Trong đó có một nhân viên xử lý nợ và
hai nhân viên pháp chế. Có rất nhiều lý do để giải thích cho vấn đề này, mà một trong
những nguyên nhân đó là:
Thứ nhât: Ngân hàng không đáp ứng được yêu cầu về lương cho họ,
Thứ hai: Thường chỉ những luật sư giỏi hoặc những người có kiến thức pháp lý tốt và
nhiều kinh nghiệm thì mới đủ khả năng để làm trưởng phòng pháp chế, mà những người
này thì họ khó mà chấp nhận việc “ngồi im” trong văn phòng để chờ đến tháng lĩnh lương
với đồng lương không thỏa mãn yêu cầu của họ.
Thứ ba: công việc của phòng pháp chế rất nhiều và phức tạp, không phải tất cả những vấn
đề liên quan đến pháp lý ngay từ đầu đều thông qua phòng pháp chế tham mưu, gây khó
khăn cho phòng pháp chế trong việc giải quyết hậu quả và làm đươc như vậy thì đòi hỏi
nhân viên cũng như trưởng phòng phải có kiến thức thực tiễn rất nhiều bên cạnh kiên
thức pháp luật. Mặt khác, các vấn đề pháp lý rất đa dạng nên không phải vấn đề gì nhân
viên phòng pháp chế cũng biết. Do đó, cần phải có sự phối hợp giữa các phòng, ban để
cùng giải quyết
.
2.1.2.2. Về hoạt động.
Phòng pháp chế thực hiện tham mưu cho Ban Tổng giám đốc những vấn đề về pháp luật
liên quan đến hoạt động của Ngân hàng.
Tham mưu cho Ban tổng giám đốc trong việc ký kết các hợp đồng đối với đối tác, đảm
bảo tính pháp lý hiệu quả, an toàn; Đảm bảo tính pháp lý của sản phẩm dịch vụ mới của
Ngân hàng trước khi ban hành, áp dụng.
Cập nhật, hệ thống và thể chế hóa các văn bản pháp lý; Nghiên cứu, cập nhật kịp thời các
văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước ban hành để xây dựng, thể chế hóa và quản lý
hệ thống thông tin pháp luật có liên quan đến hoạt động Ngân hàng; Phối hợp với các bộ
phận nghiệp vụ xây dựng, đề xuất chỉnh sửa các quy định, quy trình, hướng dẫn, biểu
mẫu, hợp đồng… của Ngân hàng cho phù hợp với các văn bản pháp luật hiện hành; Tổ
chức các buổi hội thảo giới thiệu các quy định mới của Nhà nước, quy trình nghiệp vụ
mới của Ngân hàng theo chỉ đạo của Ban Tổng giám đốc. Thực tế hiện nay ở ngân hàng

trưởng phòng giải quyết các công việc của phòng khi trưởng phòng đi vắng và chịu trách
nhiệm trước trưởng phòng và Ban Tổng giám đốc. Các chuyên viên làm việc độc lập, báo
cáo trực tiếp cho trưởng bộ phận, trưởng phòng và chịu trách nhiệm về công việc được
giao trước trưởng bộ phận, trưởng phòng… Mỗi một chi nhánh nên có một nhân viên
pháp chế. Nhân viên này phải được đào tạo, hoạt động thực tiễn tại phòng pháp chế một
thời gian mới điều động làm việc tại các chi nhánh. Vì phòng pháp chế trực thuộc khối
giám sát hoạt động nên nhân viên pháp chế này nên đồng thời thực hiện luôn nhiệm vụ
công tác hành chính nhằm tiết kiệm chi phí thuê nhân công. Bởi vì người làm pháp chế
có thể làm tốt công tác hành chính còn người làm hành chính thì khó và thậm chí không
thể đảm nhiệm được công tác pháp chế. Nhân viên này vừa phụ thuộc về mặt quản lý
hành chính của giám đốc chi nhánh, vừa phụ thuộc vào sự quản lý chuyên môn của
phòng pháp chế; đồng thời chịu trách nhiệm báo cáo tình hình của công tác pháp chế chi
nhánh cho trưởng phòng pháp chế.
Để giải bài toán giá, một số chủ doanh nghiệp cho rằng trước khi thuê tư vấn nước ngoài
nên tham khảo qua các nhà tư vấn Việt Nam rồi cùng tìm hiểu, lựa chọn đối tác và đàm
phán về kinh phí và quyền lợi các bên khi thắng kiện hoặc khi thua kiện. Tuy nhiên, điều
đó chỉ phù hợp trong trường hợp thuê luật sư khi đã có tranh chấp. Còn trong hoạt động
kinh doanh, các doanh nghiệp nên “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nên có kế hoạch tài
chính cho hoạt động tư vấn pháp luật và nếu có thể nên cơ cấu luật sư trong bộ máy của
doanh nghiệp. Vì hoạt động của ngân hàng ngày nay đã không còn bó hẹp trong phạm vi
kinh doanh hàng ngày của họ nữa. Trước sự phát triển trong hoạt động kinh doanh và đầu
tư của ngân hàng cả về chiều sâu lẫn bề rộng, một hoặc một số nhà tư vấn nội bộ của
ngân hàng không đủ kiến thức và kinh nghiệm pháp lý cho mọi lĩnh vực như vậy, đặc biệt
là trong quan hệ với đối tác nước ngoài. Ví dụ như trường hợp ngân hàng tham gia một
số lĩnh vực mới mà hợp đồng do chính bên đối tác nước ngoài soạn thảo, sẽ rất khó cho
người tư vấn nội bộ của ngân hàng có thể đưa ra đánh giá, tư vấn pháp lý toàn diện. Luật
sư chuyên nghiệp thì khác, họ có kiến thức và kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực mà
ngân hàng đang dự định tham gia, nhiều luật sư còn có kiến thức về pháp luật nước ngoài
nơi có đối tác và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ấy. Chính vì những lý do phân tích trên,
theo tác giả thì trưởng phòng pháp chế không nên thuê làm việc theo giờ hành chính mà

khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn, tham khảo, nghiên cứu các quy định cũng như
thông lệ quốc tế về lĩnh vực ngân hàng, bảo đảm tính thống nhất với các quy định pháp
luật hiện hành; Thực hiện đúng các quy định trong quy trình ban hành và soạn thảo văn
bản, đặc biệt chú ý việc lấy ý kiến góp ý của các đơn vị có liên quan; Bảo đảm chấp hành
thời hạn trong việc thẩm định, trình, ký và ban hành văn bản của ngân hàng.
· Xây dựng và quản lý hệ thống dữ liệu về pháp luật; cập nhật, hệ thống hóa các văn bản
pháp luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật phải được tiến hành thường xuyên nhằm tập hợp, hệ thống hóa các
quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực ngân hàng đảm bảo chính xác, đầy đủ,
thống nhất thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng các quy định của pháp luật. Việc rà soát hệ
thống hóa văn bản quy phạm pháp luật có thể được tiến hành theo thời gian, theo từng
chuyên đề phù hợp với từng đối tượng quản lý. Cần thực hiện tổ chức thực hiện việc rà
soát, hệ thống hoá văn bản pháp luật do Ngân hàng và các văn bản của các Bộ, ngành
khác ban hành liên quan đến hoạt động của ngành Ngân hàng và đề xuất phương án trình
Ban Tổng giám đốc xử lý kết quả rà soát văn bản pháp luật.
· Theo dõi, đôn đốc việc áp dụng pháp luật trong toàn hệ thống ngân hàng Đông Á.
· Có ý kiến đề xuất về việc xử lý các vi phạm pháp luật, các vi phạm quy chế quản lý nội
bộ của ngân hàng Đông Á và việc áp dụng các biện pháp khắc phục.
· Tổ chức phổ biến, nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ, nhân viên của ngân hàng
Đông Á. Để đảm bảo thực hiện tốt các mặt của công tác pháp chế của Ngân hàng, công
tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ, nhân viên làm công tác pháp chế cần
được quan tâm hơn nữa. Phòng nhân sự và đào tạo phối hợp với phòng Pháp chế xây
dựng kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức kinh tế, pháp lý cho cán
bộ, nhân viên làm công tác pháp chế bảo đảm kịp thời nắm bắt các quy định và thông lệ
quốc tế liên quan đến hoạt động ngân hàng, phục vụ cho công tác pháp chế trong hoạt
động đối ngoại, bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng cũng như đáp ứng được các đòi hỏi của
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới. Thủ trưởng các phòng ban và các
đơn vị thuộc Ngân hàng, Giám đốc các chi nhánh Ngân hàng chịu trách nhiệm triển khai
và thực hiện nghiêm túc các quy định của ngân hàng. Trong quá trình thực hiện, nếu có
phát sinh vướng mắc, các đơn vị báo cáo Ban Tổng giám đốc Ngân hàng xem xét, giải

· Tổng hợp và báo cáo về công tác xử lý nợ, báo cáo phân tích về nguyên nhân phát sinh
nợ quá hạn trong toàn hệ thống.
· Theo dõi, tổng hợp, trình và thực hiện việc xử lý rủi ro tín dụng toàn hệ thống theo phê
duyệt của hội đồng xử lý rủi ro và quy định của pháp luật.
· Báo cáo cho hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, đưa thông tin cảnh báo, yêu cầu các
đơn vị có biện pháp xử lý nợ đối với nợ quá hạn và biện pháp khắc phục các nguyên nhân
làm phát sinh nợ quá hạn.
· Tham gia tố tụng tại các cơ quan có thẩm quyền khi được ủy quyền.
Tổ quản lý đầu tư:
· Phụ trách hồ sơ pháp lý liên quan đến việc góp vốn, mua cổ phần của Đông Á và các
công ty trực thuộc vào các doanh nghiệp khác,
· Thống nhất, tổng hợp hồ sơ pháp lý liên quan đến việc góp vốn, mua cổ phần của Đông
Á và các công ty trực thuộc,
· Theo dõi sự thay đổi trong quá trình góp vốn, mua cổ phần của Đông Á và các công ty
trực thuộc,
· Thực hiện các thủ tục liên quan đến việc góp vốn, mua cổ phần của Đông Á,
· Hướng dẫn các công ty trực thuộc thực hiện hồ sơ pháp lý đối với các khoản góp vốn,
mua cổ phần của các công ty trực thuộc,
· Trực tiếp hoặc phối hợp cùng các bộ phận khác xây dựng, ban hành và quản lý hệ thống
mẫu biểu hợp đồng trong hoạt động tín dụng,
Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ pháp lý chứng từ trong toàn hệ thống.
Người phụ trách pháp lý có thể hỗ trợ rất nhiều trong các hoạt động của ngân hàng như
hỗ trợ cán bộ tín dụng xem xét, thẩm định tư cách khách hàng. Thực tế, cán bộ pháp lý là
người nắm rõ các quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, chức năng quyền hạn của
những người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức nên rất thuận lợi trong việc xác
định thẩm quyền và trách nhiệm của họ trong mối quan hệ với ngân hàng. Họ thẩm định


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status