Tài liệu Đề tài "Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam và giải pháp" - Pdf 98




Đề Tài: Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ
nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà
nước Việt Nam và giải pháp 1

LỜI NÓI ĐẦU
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

1. Khái niệm .
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong các công cụ để thực thi chính
sách tiền tệ , mang lại hiệu quả cao và hiện đang được các nước trên thế giới
sử dụng đẻ điều hành chính sách tiền tệ . Khi ngân hàng Trung ương thực
hiện nghiêp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền
tệ cả về mặt giá trị và mặt lượng.
Về mặt lương : Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dữ liệu
của ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua
chứng từ có giá trị trên thị trường mở , kết quả lam dự trữ của ngân hàng
thương mại tăng lên . Khi ngân hàng Trung ương thực hiện bán trứng từ có
giá trị trên thị trường mở và kết quả làm dự trữ của ngân hàng thương mại
giảm đi . Như vậy khi ngân hàng Trung ương thực hiện nhiệm vụ thị trương
mở nó sẽ tác động vào dự trữ của ngân hàng thương mại , làm ảnh hưởng đến
khối lượng tín dụng từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
Về mặt giá: Khi ngân hàng Trung ương mua chưng từ có giá sẽ làm
tăng dự trữ của ngân hàng thương mại , cung vôn tín dụng cũng vì thế sẽ tăng
lên .Cung vốn tin dung tăng ắt sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn , làm lãi
suất ngằn hạn có xu hướng giảm xuống và tác động vào lãi suất có kỳ hạn
giảm .Bên cạnh đó khi ngân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá
trị trên thị trưởng mở sẽ ảnh hưởng đén tỷ suất sinh lời của các chứng từ có
giá trị dẫn đến có sự chuyển dịch vốn đầu tư, làm ảnh hưởng đến lãi suất thị

3

trường , tác động vào cung cầu vốn trong nền kinh tế , ảnh hương đến lượng
tiền cung ứng.
Khi ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua bán các chứng từ có giá
trị trên thị trường mở sẽ tác động vào giá cả của chứng từ có giá và khi ngân

mở bằng chứng khoán kho bạc, bởi vì chứng khoán kho bạc có tính thanh
khoản cao, dễ chuyển đổi trên thị trường và do đó dễ được các bên chấp nhận
trong giao dịch. Cũng có nhiều nước Ngân hàng Trung ương cho phép sử
dụng cả trái phiếu (thời hạn còn lại dưới 1 năm ) được giao dịch trong nghiệp
vụ thị trường mở, nhưng chỉ với mục tiêu điều chỉnh vốn khả dụng của các
ngân hàng và kiểm soát lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
4. Phương thức giao dịch trên thị trường mở,
- Giao dịch song phương: Ngân hàng Trung ương giao dịch trực tiếp
với người mua, bán thực hiện mua hoặc bán hẳn chứng từ có giá.
- Giao dịch qua thị trường chứng khoán: Thông qua thị trường chứng
khoán, qua các đại lý chứng khoán mà Ngân hàng Trung ương tiếp cận với
người mua hoặc người bán để tiến hành mua hoặc bán.
- Giao dịch qua đấu thầu: Đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất.
+ Đấu thầu khối lượng: Ngân hàng Trung ương công bố khối lượng tiền
cần mua hoặc cần bán bằng phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất
thực hiện, Ngân hàng Trung ương công bố điều kiện đặt thầu để tổ chức mua
bán phải chấp hành, các Tổ chức Tín dụng cần mua hoặc bán tiến hành nộp
thầu theo qui định. Sau khi mở thầu Ngân hàng Trung ương sẽ xác định tỷ lệ
giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu.
Sau khi trúng thầu các ngân hàng thực hiện nhận tín phiếu kho bạc và
thạn toán tiền theo qui định,
+ Đấu thầu lãi suất: Theo cách đấu thầu lãi suất thì các đơn vị đặt thầu
đăng ký lãi suất đặt thầu và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký.

5

Ngân hàng Trung ương sẽ quan tâm tới lãi suất đặt thầu và sẽ lấy từ lãi suất
cao tới lãi suất thấp cho đến khi nào đạt được lượng tiền mà Ngân hàng Trung
ương cần cung ứng vào lưu thông.
Nguyên tắc khi xét thầu theo lãi suất nếu Ngân hàng Trung ương bán

theo hướng có sự phát triển và cạnh tranh. Trong những trường hợp như vậy
thì hoạt động thị trường mở cần phải có giới hạn theo từng giai đoạn. Sự tham
gia của Ngân hàng Trung ương sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường, dù
vậy Ngân hàng Trung ương cần chú ý rằng viếc tham gia vào thị trường sẽ
không được phép có ảnh hưởng hoặc làm tăng thêm rủi ro trong bảng tổng kết
tài sản của Ngân hàng Trung ương. Một Ngân hàng Trung ương sẽ có khả
năng hoạt động có hiệu quả hơn nếu bảng danh mục tài sản của nó có tính
lỏng cao và không có rủi ro.
7. Ưu nhược điểm của thị trường mở.
- Ưu điểm:
Khi sử dụng công cụ này Ngân hàng Trung ương chủ động can thiệp về
khối lượng nhiều hay ít tuỳ ý, thời gian tuỳ thuộc vào thời gian mà Ngân hàng
Trung ương muốn điều chỉnh lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Trung ương có
thể quyết định mua, bán chủng loại giấy tờ có giá để nhằm đạt được mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Công cụ này có tính linh hoạt cao, bất kỳ lúc nào sự
can thiệp của Ngân hàng Trung ương đều tác động đến tiền trung ương sau đó
ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân hàng Trung ương có thể điều chỉnh được lượng
mua và bán tuỳ ý, thông qua giá mua và giá bán mà Ngân hàng Trung ương
có thể mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trung ương, và có khả năng điều chỉnh
sai lầm nếu đã bán không phù hợp hoặc đã mua không phù hợp.
- Nhược điểm:
Hạn chế lớn nhất của nghiệp vụ này là để công cụ này phát huy hiệu
quả thì quốc gia đó phải có thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị
trường là các giấy tờ có giá ngắn hạn phải phong phú và đa dạng. Ngân hàng

7

Trung ương phải có khả năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để
can thiệp mua, bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc
tác động vào lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương mua, bán làm

ngân hàng, vốn, khả năng thanh toán. Do đó, hoàn thiện thị trường tiền tệ liên
ngân hàng là một mục đích của Việt Nam trong tiến trình cải cách hệ thống
ngân hàng.

9

2. Xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời
gian tới.
Việt Nam đang thực hiện quá trình đổi mới nền kinh tế, chuẩn bị các
điều kiện hội nhập quốc tế về thương mại, dịch vụ. ngân hàng. Hội nhập ngân
hàng là xu thế của thời đại xuất phát từ quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế nói
chung và hoạt động của ngân hàng nói riêng.
Việt Nam đang đồng thời tiến hành đàm phán theo yêu cầu của hiệp
định GATS (hiệp định thương mại dịch vụ ) của Tổ chức Thương Mại Thế
Giới (WTO) và hiệp định AFTA của hiệp hội ASEAN.Các cam kết, yêu cầu
mà các tổ chức này đòi hỏi là rất cao mà Việt nam phải phấn đấu thực hiện
theo đúng tiến độ. Mặt khác, các nước trong các tổ chức này, dù ít dù nhiều,
đều thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở với nhiều mức độ khác nhau. Ngay
cả các nước thành viên của ASEAN và các nước Châu á như Malayxia,
Philippin, Thailand, India, Indonesia, Japan, đều sử dụng nghiệp vụ thị
trường mở để đạt được các mục đích vĩ mô của mình. Trong bối cảnh như
vậy, Việt Nam phải tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng trng nước,
đẩy mạnh hoạt động theo cơ chế thị trường an toàn và có lẽ để có thể gia nhập
vào cộng đồng quốc tế.Thị trường mở ở Việt nam vì vậy càng trở nên cần
thiết và nên sớm trở thành hiện thực.
3.Thị trường mở giúp chính phủ thực thi chính sách tài chính quốc
gia có hiệu quả.
Các quyết định của Chính phủ về quản lý nợ và cân đối tiền gửi co ảnh
hưởng quan trọng tới nghiệp vụ thị trường mở. Kho bạc nhà nước thường đưa
ra quyết định cuối cùng về quản lý nợ, còn Ngân hàng Trung ương lại liên


11
Chương III:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM

I. LÝ THUYẾT VÀ THỰC TẾ ÁP DỤNG.
1. Vài nét về OMT tại Việt Nam.
Điều kiện thị trường tài chính :
Thị trường tài chính ở nước ta vẫn còn nhỏ bé về quy mô, đơn sơ về
chủng loại hàng hoá và lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Thị trường trái phiếu Chính phủ : Năm 1991, trái phiếu Chính phủ ra
đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ ( không thông qua kênh
NHTW phát hành tiền nữa ); đến năm 1994 khi Trái phiếu kho bạc, tín phiếu
kho bạc và trái phiếu công trình được phép phát hành rộng rãi thì thị trường
trái phiếu chính phủ mới tương đối được mở rộng. Trước năm 1995, Trái
phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng tại các chi nhánh kho
bạc nên khối lượng trái phiếu nhỏ ( 17 tỷ đồng ) trong cả giai đoạn từ 1991 -
1995 )từ tháng 6 năm 1995 bắt đầu phát hành qua NHNN, lượng trái phiếu đã
dồi dào hơn. Tuy nhiên do lãi suất chỉ đạo không sát với thực tế đồng thời
cũng không có thị trường thứ cấp cho công cụ này nên số lượng trái phiếu
hiện đang lưu hành có giá trị không lớn như số lượng dự kiến phát hành. Theo
quy chế phát hành trái phiếu chính phủ được ban hành kèm theo Nghị định
01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 của chính phủ thì trái phiếu chính phủ được
phát hành qua các kênh như : đấu thầu qua NHNN ( đối với tín phiếu kho bạc
) ; phát hành thông qua thị trường Chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống kho bạc
nhà nước, đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành đối với trái phiếu kho bạc và
tín phiếu đầu tư). Trái phiếu Chính phủ được nắm giữa chủ yếu bởi các
NHTM quốc doanh và một số ít NHTM cổ phần, chủ yếu là để giải quyết


phương tiện cho hoạt động OMO như mạng máy tính, fax, điện thoại … phải
đang ký với NHNN để được hoạt động OMO.
- Hàng hoá trên thị trường hiện nay quá thiếu thốn cả về chủng loại lẫn
khối lượng. Theo quy định, chỉ có tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác ( thống đốc sẽ quyết định trong từng thời kỳ).
Tuy nhiên, trên trực tế chỉ có hai loại hàng hoá là tín phiếu kho bạc và tín
phiếu NHNN. Hàng hoá cần phải đảm bảo những tiêu chuẩn sau : có thể giao
dịch được, phải là các giấy tờ có giá ngắn hạn, phát hành bằng đồng Việt
Nam, phải được đăng ký tại NHNN.
Nếu hình thức giao dịch là mua bán hẳng thì thời hạn còn lại của
GTCG phải nhỏ hơn 90 ngày.
- Đấu thầu bao gồm đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
Đấu thầu khối lượng : NHNN sẽ thông báo cho các thành viên tham gia
về mức lãi suất và khối lượng cần giao dịch
Đấu thầu lãi suất : NHNN thông báo khối lượng cần giao dịch, phương
pháp chọn lãi suất trúng thầu …
Việc xác định lãi suất của NHNN trong OMO thường căn cứ vào các
mức lãi suất hiện hành là lãi suất tái cấp vốn của NHNN cho các TCTD (
thường dưới hình thức là lãi suất phạt ) lãi suất tái chiết khấu các GTCG, lãi
suất của OM O thường nằm trong 2 mức lãi suất này. Tuy nhiên trong giai
đoạn đầu để hỗ trợ hoạt động của thị trường mở, mức lãi suất tái cấp vốn và
tái chiết khấu được xác định ở mức tương đối cao hơn hẳn lãi suất trên thị
trường mở. NHNN cũng có thể lấy lãi suất trái phiếu kho bạc và lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng làm lãi suất tham chiếu. Tuy vậy, lãi suất TPKB chỉ
mang tính tham chiếu, không ảnh hưởng đến quyết định về mức lãi suất trên
thị trường mở nên TPKB vẫn là lãi suất chỉ đạo ít mang tính thị trường. còn
lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng thực chất rất khó đưa vào làm lãi

14
suất tham chiếu vì số ngân hàng tham gia thị trường này không nhiều và khả

phương tiện thanh toán khỏi hệ thống ngân hàng, NHNN thực hiện bán hẳng
lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỷ VND.
Từ 21/3 đến cuối tháng 4, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, NHNN tổ
chức các phiên giao dịch trên thị trường mở với mục tiêu cung ứng thêm
phương tiện thanh toán cho hệ thống.
Như vậy có thể thấy, NHNN đã cố gắng thực hiện việc điều hành
CSTT bằng công cụ gián tiếp. OMO đã được thực hiện tương đối linh hoạt
đáp ứng được phần nào đó nhu cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết được
một phần lượng vốn khả dụng dư thừa trong một số thời kỳ. Các công cụ và
hình thức thực hiện cũng đã được áp dụng tương đối thành công như đấu thầu
lãi suất, đấu thầu khối lượng, xét khối lượng thầu theo phương pháp tính lãi
suất riêng lẻ … tuy nhiên, do còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trình độ cán
bộ, sự đơn sơ của thị trường tài chính sự bất cập trong vấn đề lượng thành
viên tham gia thị trường cũng như khối lượng GTCG do các thành viên nắm
giữ … nên tác động can thiệp của NHNN thông qua OMO vẫn còn rất hạn
chế.
Để OMO thực sự phát huy được tác dụng, trước mắt, NHNN cần phải
hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường liên ngân hàng, cho phép mua bán cả
những trái phiếu Chính phủ dài hạn trên thị trường mở, trái phiếu do NHTM
phát hành … hoàn thiện hệ thống thanh toán liên ngân hàng , còn về lâu dài,
thì thực tế phải là nhiệm vụ của cả hệ thống ngân hàng tài chính, đó là phát
triển thị trường trái phiếu Chính phủ, thị trường tiền tệ, các thị trường tài
chính khác, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của các thị trường, thành lập các tổ
chức xếp hạng tín dụng có uy tín để tăng việc sử dụng các công cụ nợ, tăng số

16
thành viên tham gia thị trường… Vì đây là một thị trường nên càng có sự
cạnh tranh thì tính hiệu quả của nó càng cao. Đi đôi với tất cả những việc làm
trên, thì việc cải cách thành công hệ thống ngân hàng là một nhân tố không
thể thiếu để có thể điều chính sách tiền tệ một cách linh hoạt với các công cụ

Theo dõi, tính toán dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng. Các
thông tin này giúp ban thị trường mở cần phải thay đổi vốn khả dụng ở các
NHTM ở mức độ cần thiết để đạt được yêu cầu cung ứng tiền tệ. Theo dõi
diễn biến xu hướng vận động của tình hình lạm phát, lãi suất đầu tư, tính toán
đề xuất phương án mua hoặc bán trình thống đốc quyết định. Phát triển công
nghệ ngân hàng bao gồm con người và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Các
thành viên tham gia trên TTM có thể nối mạng máy tính nhanh chóng nắm bắt
thông tin, quyết định mua bán kịp thời.
2 Xây dựng thị trường tiền tệ và phát triển thị trường chứng khoán.
Môi trường để NHTW phát huy nghiệp vụ thị trường mở là thị trường
tiền tệ. Sự phát triển TTTT làm tăng tính lỏng và số lượng các loại chứng
khoán được mua bán và NHTW có thể căn cứ vào đó mà chọn ra những loại
chứng khoán mua bán trong TTM. Để đạt được điều này, trước hết thị trường
liên ngân hàng phải được xác lập và phát triển. Trong đó, các NHTM phải
thực sự năng động và môi trường vận hành phải phù hợp với cơ chế thị
trường. Các công cụ của thị trường và nhu cầu giao dịch được hình thành, hệ
thống thông tin liên lạc phát triển để NHTW có thể thu thập số liệu phải có độ
tin cậy cao để NHTW có thể thay đổi chính sách cung ứng tiền một cách
nhanh chóng.
Sự phát triển của thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng của chứng
khoán trên thị trường, kích thích đầu cơ chứng khoán của các chủ thể kinh tế,
do đó để công cụ nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả phải được sự hỗ
trợ tích cực của thị trường chứng khoán. Vì vậy để thị trường chứng khoán

18
mới ra đời ở Việt Nam phát triển cần có những giải pháp cụ thể : thúc đẩy quá
trình cổ phần hoá, tăng thêm số công ty được niêm yết, ban hành luật chứng
khoán, xúc tiến nhanh việc thành lập thị trường OTC, mở rộng tăng cường phí
đầu tư bổ xung kiến thức cho đội ngũ chuyên viên đang làm việc trên thị
trường chứng khoán …

gián tiếp với điều hành chính sách tiền tệ điển hình là công cụ nghiệp vụ
TTM. Việc điều hành CSTT như trên đòi hỏi tiền đề là thị trường tiền tệ và thị
trường chứng khoán chính phủ và thị trường hối đoái phải phát triển ở mức
khá hoàn thiện, trình độ quản lý vốn khả dụng của NHTW ở mức khá cao,
trang bị kỹ thuật hiện đại trong hoạt động giao dịch trên thị trường phải có cơ
sở một nền tài chính và tiền tệ khá ổn định, vững chắc, hệ thống ngân hàng
phát triển càng cao, mạng lưới thanh toán và bù trừ đáng tin cậy. Tất cả những
điều kiện đó việt nam đều chưa có. Do đó trong những năm tới nghiệp vụ
TTM chưa thể phát huy hiệu quả tối đa của nó. Vì vậy ngân hàng cần thực
hiện các giải pháp cơ bản trên để công cụ nghiệp vụ TTM trở thành công cụ
chủ yếu của CSTT và phát huy được hiệu quả tối đa của nó.

20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí ngân hàng
Giáo trình "nghiệp vụ ngân hàng trung ương"
Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các TCTD


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status