Tài liệu Đề án "Một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện công bằng xã hội ở VN" - Pdf 99

Trường………………………………
Khoa…………………………

TIỂU LUẬN Một số giải pháp phát huy
vai trò của đầu tư trong
việc thực hiện công bằng
xã hội ở Việt Nam
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
MỤC LỤC
Lời giới thiệu 1
Chương1. Lý Luận chung về Đầu tư và Công bằng xã hội 2
I. Một số ván đề chung về đầu tư 2
1. Khái niệm 2
2. Vai trò của đầu tư. 2
II. Lý luận chung về đầu tư và Công bằng xã hội 4
1. Một số vấn đề về Công bằng xã hội. 4
2. Các thước đo về Công bằng xã hội 6
3. Sự cần thiết c
ủa hoạt động đầu tư trong việc giảI quyết vấn đề Công
bằng xã hội. 7

xoá đói giảm nghèo và thực hiện Công bằng xã hội 30
2.
Nâng cao hiệu quả xã hội trong từng dự án đầu tư, phát huy vai trò của
đầu tư trong giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo 34
3. Giải pháp đầu tư cho phúc lợi xã hội một cách công bằng và hợp lý. 35
4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về Đầu tư
trong việc thực hiện CBXH 37

Kết Luận 39
Tài liệu tham khảo 39
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
LỜI GIỚI THIỆU

Kể từ khi bắt đầu quá trình đổi mới hiện nay, đất nước ta đã có những
thành quả rất đáng khích lệ trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta
cũng bắt đầu chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, không phải tất cả cái gì đều tồn tại tích cực của nó mà đều ẩn
chứa trong nó những mặt tiêu cực và chỉ chờ cơ hội bùng phát ra. Kinh tế thị
trường cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. Bờn cạnh mặt tớch cực nú cũn cú mặt
trỏi, cú khuyết tật từ trong bản chất của nú do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn
đề xó hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xó hội, đào sâu thêm hố
ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Do vậy việc cấp thiết hiện nay của

bỏ ra.
Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và
trí tuệ và thu được các kết quả là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật
chất và nguồn nhân lự
c có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong
nền sản xuất xã hội.
2. Vai Trò của Đầu Tư trong nền kinh tế.
2.1. Đầu Tư và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Lý luận và thực tiễn đều chỉ cho chúng ta thấy rõ điều này.
Cho đến những năm của thế
kỷ 20, nhà kinh tế học Haros Domar của trường
phái Keynes đã chỉ ra mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thông qua hệ số
ICOR.

I
G =
ICOR * Y
Trong đó G: tốc độ tăng trưởng kinh tế.
I: Vốn đầu tư
Như vậy giữa I và G có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau thông qua hệ số
ICOR. Điều này thể hiện càng tăng nguồn lực đầu tư thì kinh tế sẽ tăng trưởng
cao.
2.2. Đầu Tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chúng ta có thể nhận rõ vai trò của đầu tư đối với chuy
ển dịch cơ cấu
kinh tế thông qua chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia và các chính sách
thu hút đầu tư vào ngành mũi nhọn được ưu tiên.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN


Thông qua đầu tư và tăng trưởng kinh t
ế, nền kinh tế sẽ phát triển đa dạng hơn.
Tính cạnh tranh của nền kinh tế tăng cao, đây cũng là một trong những điều kiện
thực hiện Công bằng kinh tế. Bởi muốn thực hiện Công bằng về xã hội thì trước
hết chúng ta cần thực hiện về Công bằng về kinh tế.
Kinh tế phát triển cũng góp phần giải quyết việc làm cho người dân. Có thể
nói
một nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất, qua đó
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
cũng cần tương ứng một nguồn lao động phù hợp. Tuy nhiên đây lại là một điểm
yếu của lao động chúng ta khi chất lượng lao động chưa cao.
Thông qua tăng trưởng kinh tế, Ngân Sách Nhà Nước (NSNN) sẽ được đóng góp
cao hơn. Qua đó, Nhà nước sẽ có đủ nguồn lực để chi dùng NSNN trong việc tái
đầu tư trong đó có các hoạt động đầu tư cho CBXH.
Đầu tư cũng có vai trò quan trọng trong việc chuyể
n dịch cơ cấu kinh tế.
Từ đó sẽ thúc đẩy các khu vực nông thôn lạc hậu chuyển dần sang các ngành
công nghiệp có lợi thế của vùng. Qua đó, sẽ giúp phát triển các ngành, các vùng
khó khăn kém phát triển, góp phần làm giảm sự phân hóa xã hội và thực hiện
CBXH.
Nhắc đến đầu tư, chúng ta không thể không nhắc dến các hoạt động đầu tư
của Nhà nước tác động trực tiếp tới CBXH. Đó là các hoạt
động đầu tư cho Xóa
đói giảm nghèo, đầu tư nâng cao hệ thống phúc lợi xã hội,…Tất cả các hoạt
động trên góp phần giảm đi số lượng người ngèo, nâng cao mặt bằng chung của
xã hội, đẩy mạnh tiến bộ và CBXH
b) Nếu chúng ta xét góc độ doanh nghiệp, hoạt động đầu tư sẽ giúp doanh
nghiệp thực hiện những mục tiêu chiến lược của mình nhằm thu được lợi nhuận

quả của tăng trưởng của kinh tế xã hội cho mọi người. Vì nếu vậy không có ai
đem hết sức lực, trí tuệ, vốn vật chất ra đầu tư, và không ai dám chịu rủi ro để
đầu tư phát triển sản xuất. Công bằng cần được hiểu là sự bình đẳng trước các cơ
hội về việc làm, đầu tư, bình đẳng trước các cơ hội để nâng cao nguồn vốn nhân
lực và có mức sống cao hơn. Nhà nước khuyến khích mọi người ra sức làm giàu
bằng cách chính
đáng. Phấn đấu để cho người nghèo tiến tới đủ ăn, người đủ ăn
có cuộc sống khá giả và người khá giả trở nên giàu có. Trong chính sách phát
triển phảI chấp nhận một bộ phận dân cư vươn lên giàu trước, có một số vùng
giàu trước, từ đó hỗ trợ cho quá trình phát triển chung của đất nước. Mặt khác,
phải có chính sách hỗ trợ cho người nghèo vươn lên. Việt Nam là nước nghèo lại
tr
ải qua chiến tranh kéo dài để lại hậu quả nghiêm trọng, cho nên số người thuộc
đối tượng chính sách nhiều trong khi khả năng kinh tế của đất nước có hạn. Hơn
nữa, khi chuyển sang kinh tế thị trường, mặt trái của cơ chế này đã làm nảy sinh
một số vấn đề như phân hoá giàu nghèo tăng lên, tình trạng thất nghiệp và đặc
biệt là sự suy thoái về đạo đức xã hội. Do nguồn lực kinh tế có hạn nên chúng ta
tạm chấp nhận có sự phân hoá giàu nghèo nhưng không thể đồng nhất sự phân
hoá giàu nghèo với sự bất bình đẳng bất công.
*) Trong chiến lực ổn định và phát triển kinh tế xã hội và tại nghị quyết
Đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ ra rằng CBXH là một mục
tiêu quan trọng của đất nước. Quan điểm của Việt Nam là tăng trưở
ng kinh tế
phảI gắn liền với CBXH trong từng thời kỳ phát triển và CBXH phải thể hiện ở
khâu phân phối kết quả sản xuất, tạo quyền bình đẳng trước các cơ hội của mọi
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
tầng lớp dân cư vì mục tiêu phát triển. Như vậy mới có thể huy động được mọi
nguồn lực trong Xã hội.

nh viện, tỷ lệ đầu tư công cộng cho sức
khoẻ trong tổng đầu tư công cộng của Chính phủ. Chúng ta đặc biệt quan tâm
các chỉ tiêu trên ở các khu vực khó khăn, vùng sau, vùng xa.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
+ Các chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá giáo dục: tỷ lệ số người biết chữ,
tỷ lệ phổ cập giáo dục, số trường học, đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Chúng
ta cũng đặc biệt quan tâm đến mức độ bình đẳng trong giáo dục thể hiện qua việc
tỷ lệ đầu tư cho giáo dục ở các vùng khó khân và các cơ hội tiếp cận giáo dục
của người nghèo. 2.4. Chỉ số phát triển con người.
Đây là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện mức độ phát triển con người do Liên Hợp
Quốc đưa ra. Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng là một thức đo quan trọng
trong việc đánh giá CBXH, nó thể hiện mức độ đầu tư của Nhà nước cho việc
phát triển con người và cơ hội phát triển bình đẳng của mọi tầng lớp trong xã
h
ội. Chỉ tiêu này được kết hợp từ ba yếu tố: chỉ tiêu tuổi thọ bình quân, chỉ tiêu
trình độ giáo dục và chỉ tiêu GNP/ người (tính theo phương pháp PPP).
3. Sự cần thiết của hoạt động Đầu tư trong việc giảI quyết vấn đề CBXH ở Việt
Nam.
3.1. Giải quyết vấn đề CBXH là việc làm cấp thiết và quan trọng trong giai
đoạn hiện nay.
Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh t
ế mạnh mẽ như hiện nay thì mặt
trái của cơ chế thị trường cũng bộc lộ một cách rõ ràng hơn. Tình trạng bất bình
đẳng xã hội, phân hoá giàu nghèo đang tăng lên. Điều này đòi hỏi việc giải quyết
vấn đề CBXH là một vấn đề cấp thiết và quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

vì vậy nền tảng cho việc Xoá đói giảm nghèo rất yếu. Việc cần làm lâu dài của
chúng ta là cần phải xây được cái nền tảng vững chắc cho người nghèo để cơ hội
tái nghèo của họ là rất thấp. Những yêu cầu này đòi hỏi chúng ta cần phải có
những biện pháp kịp thời và đúng đắn về đầu tư. Chúng ta đã xem xét nội dung
của hoạt động đầu tư cho CBXH ở phần trên. Trong đó, các hoạt động đầu tư
cho giáo d
ục, y tế tạo ra cơ hội bình đẳng, cơ hội được vươn lên của mọi tầng
lớp xã hội kể cả ngững người nghèo nhất. Hoạt động đầu tư này đem lại tri thức
cũng như cung cách làm ăn có hiệu quả nhất cho người nghèo, giúp họ có khả
năng tự tin trong cuộc sống. Kết hợp với đầu tư cho giáo dục và y tế, hoạt động
đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo sẽ thực sự tạo ra dòng vốn có hiệu quả cho người
nghèo. Đây cũng chính là ưu điểm của đầu tư trong việc giải quyết vấn đề
CBXH.
Tóm lại, Đầu tư là yếu tố cần thiết và quan trọng trong việc giải quyết vấn đề
CBXH.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến Đầu Tư và Công Bằng Xã Hội.
1. Tình hình kinh tế của đất nước.
1.1. Kinh tế phát triển tốt, bền vững góp phần thu hút đầu tư và thực hiện
CBXH.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Ảnh hưởng của tăng tưởng kinh tế đến đầu tư và CBXH.
Từ việc kinh tế phát triển cao, Nhà nứớc mới có đủ nguồn lực để thực
hiện các hoạt động đầu tư cho phát triển kinh tế và đầu tư cho CBXH. Tăng
trưởng kinh tế là điều kiện cần trước tiên để cải thiện các chính sách về phúc lợi
xã hội, khắc phục tình trạng đói nghèo của mộ
t quốc gia. Thực tiễn những năm
vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước có sức mạnh
vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và


Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
1.2. Kinh tế đất nước suy thoái làm trì hoãn các hoạt động đầu tư đồng thời làm
tăng mức độ nghèo khổ và bất bình đẳng.
Ảnh hưởng của kinh tế suy thoái tới đầu tư.
Kinh tế phát triển kém, Nhà nước sẽ không có đủ nguồn lực cho hoạt
động đầu tư. Do triển vọng về kinh tế không mấy khả quan, các doanh nghiệp
thường không muốn mạo hiểm đồng vốn đầu tư củ
a mình trong khi một trong
những đặc điểm của đầu tư là tính mạo hiểm cao, thời gian dài và khó xác định.
Đồng thời, do nền kinh tế bị suy thoái, người dân cũng không còn dư dả vốn để
đầu tư, mà mục tiêu trước mắt của họ là sông đủ qua ngày. Do đó, nguồn vốn
đầu tư huy động từ trong nước sẽ bị sụt giảm nhanh chóng. Mặt khác, kinh tế
mất ổn định cũng là nhân t
ố làm nản lỏng các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, đầu
tư nước ngoài cũng bị giảm sút.
Ảnh hưởng của sự giảm sút kinh tế tới đầu tư và công bằng xã hội.
Kinh tế trì trệ cũng đồng nghĩa với việc giảm các khoản thu cho NSNN.
Rõ ràng, với nền kinh tế như vậy, Nhà nước sẽ không thể tăng thuế được mà
thậm chí còn phải giảm thuế để
thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ việc NSNN bị
giảm sút, các hoạt động đầu tư cho CBXH sẽ bị cắt giảm để giành cho các mục
tiêu phát triển trước mắt.
Kinh tế phát triển kém cũng tạo ra cho Xã hội nhiều vấn đề nảy sinh theo
hướng tiêu cực như thất nghiệp, thu nhập người lao động giảm sút. Rõ ràng
những ngưòi bị thất nghiệp đầu tiên chính là những người không có trình độ
học
vấn, kỹ năng không cao. Mà đây chính là đặc điểm của phần lớn người nghèo
trong xã hội. Tất cả những điều đó sẽ dẫn đến nghèo khổ tăng, bất bình đẳng tiếp
diễn và nảy sinh các tệ nạn xã hội.

chiến lược đầu tư của Chính phủ và các doanh nghiệp cũng thay đổi theo. Nhà
nước cũng bắt đầu chú trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn có lợi
thế so sánh của Việt Nam và có những ưu đãi đối với những ngành này. Chính
những chuyển biến trong việc chuyển đổi cơ cấu đầu tư
đã thúc đẩy tăng trưởng
nền kinh tế. Đồng thời nó cũng vực dậy nền kinh tế ở khu vực nông thôn vốn
chậm phát triển. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển
dịch theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích sử dụng; đặc biệt là
nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phát triển khá nhanh. Kinh tế nông thôn
phát tri
ển đa dạng hơn, nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn gắn
với công nghiệp chế biến được hình thành; các làng nghề bước đầu được khôi
phục và phát triển; sản xuất trang trại phát triển nhanh.
Qua đó tạo cơ hội nâng mặt bằng thu nhập chung của Xã hội, góp phần
giải quyết việc làm cho người lao động và tiến tới xoá bỏ nghèo đói. Đây chính
là tác động tích cực của chuy
ển dich cơ cấu kinh tế tới đầu tư và CBXH.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình CNH- HĐH
diễn ra nhanh chóng đã khiến các chính sách đầu tư của Nhà nước chuyển biến
không kịp. Nhà nước không thể cùng một lúc vừa đầu tư cho các ngành công
nghiệp mũi nhọn lại vừa đầu tư nhằm làm giảm sự phân hoá giàu nghèo. Chính
vì mục tiêu trước mắt là tăng trưởng kinh tế nên các hoạt động đầu t
ư cho CBXH
bị xem nhẹ. Do đó tình trạng bất bình đẳng, nghèo đói cũng có xu hướng tăng.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
2.2. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu vùng.
Bên cạnh đó, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng,
khu vực khác nhau cũng có tác động nhất định đến đầu tư và CBXH. Các vùng,

sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo. Ngoài chính sách về đầu tư,
Nhà nước cũng còn sử dụng các chính sách khác trọng việc xoá bỏ bất bình đẳng
xã hội như chính sách thuế, chính sách trợ giá cho nông nghiệp.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
3.2. Hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Khi nghiên cứu tác động của Nhà nước đối với đầu tư và việc thực hiện
CBXH, chúng ta cần phải nhắc đến hiệu quả hoạt động của Chính Phủ. Trình độ
năng lực của cán bộ sẽ giúp cho việc đầu tư có hiệu quả hơn đặc biệt là các dự án
đầu tư tại các vùng xa Trung ương rất cần có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn,
vững về đạo đức. Bởi các dự án này cũng như các dự án đầu tư cho CBXH rất
khó xác định và kiểm tra tính hiệu quả của nó.
Hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng liên quan đến vấn đề trong sạch
của bộ máy. Rõ ràng, một Chính phủ không thể hoạt động hiệu quả nếu như vẫn
còn tình trạng tham nhũ
ng, quan liêu của cán bộ, vẫn còn tình trạng làm giàu bất
chính vơ vét của công của một số cán bộ biến chất. Tình trạng tham nhũng đó sẽ
thể hiện bất công ngay ở trong bộ máy cao nhất của Nhà nước thì khó có thể
thực hiện được mục tiêu Công bằng trong xã hội.

4. Một số nhân tố khác ảnh hưởng tới Đầu tư và Công Bằng Xã Hội.
Ngoài các nhân tố trên, chúng ta còn thấy một số
nhân tố khác cũng tác động đến
CBXH như các yếu tố về điều kiện tự nhiên và các yếu tố về điều kiện xã hội.
4.1. Điều kiện tự nhiên.
Nước ta có địa hình phức tạp, diện tích đất tự nhiên đã ít lại không màu mỡ, khô
cằn, núi đá nhiều dẫn đến diện tích canh tác nhỏ hẹp, năng suet cây trồng thấp.
Các vùng này lại thường hẻo lánh, ít đượ
c đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nên có

XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM

I. Hoạt động Đầu Tư nhằm làm giảm phân hoá giàu nghèo.

1. Đầu tư cho việc phát triển nông nghiệp nông thôn và các vùng kinh tế khó
khăn.
1.1. Tình hình đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn.
a) Nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tăng dần qua các năm.
Hiện nay trên 77% cư dân sống ở nông thôn, 70% thu nhập và đời sống của cư dân
nông thôn dựa vào nông nghiệp, 90% người nghèo sống ở nông thôn, do đó việc
phát triển nông nghiệp và nông thôn là mấu chốt của Chiến lược toàn diện về Tăng
trưởng và Xóa
đói giảm nghèo. Nhà nước đã tập trung đầu tư cho nông nghiệp và
nông thôn trong 10 năm 1991- 2000 gần 70 nghìn tỷ đồng (giá 1995), tương đương
6 tỷ đô la…
< vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp> <nguồn: Tổng Cục thống kê>
1995 1996 1997 1998 1999
Tổng số
68047 79367 96870 97336 103771
Nông lâm thuỷ
sản (tỷ VNĐ)
5209 5723 7084 7629 7733
Tỷ trọng(%)
7,7 7,2 7,3 7,8 7,5

Tốc độ tăng vốn bình quân hàng năm gần 23% (bình quân chung cả nước là
19,1%) trong đó tốc độ tăng vốn bình quân trong 5 năm 1996- 2000 là 22%. Rõ
ràng, trong 2 năm 2001 và 2002 tốc độ tăng vốn đầu tư rất nhanh so với các giai
đoạn trước. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn trong tổng vốn đầu
tư xã hội bình quân 1991- 2000 là 10,2%, năm 2001 là 17,6% và năm 2002 khoảng

Bên cạnh đó, nhờ có chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành nông
nghiệp và nông thôn nên số dự án FDI vào khu vực này cũng tăng nhanh qua đó
cũng tạo thêm nhu cầu về lao động. Năm 1998, đã có 225 doanh nghiệp có vốn
FDI Đầu tư vào nông nghiệp. Trong đó, có khoảng 1,5 tỷ USD cho lĩnh vực chế
biến lương thực và nông lâm hải sả
n và 910 triệu USD cho sản xuất nông
nghiệp. Qua đó, năng lực sản xuất và chế bién nông lâm thuỷ sản được nâng cao
theo tiêu chuẩn quốc tế. Đến năm 2003, chúng ta đã thu hút được 780 dự án với
tổng vốn dăng ký trên 3,8 tỷ USD, tăng thêm 555 dự án so với năm 1998. Năm
97, các doanh nghiệp có vốn FDI đã giảI quyết việc làm cho trên 20000 lao động
trực tiếp và hàng chục nghìn lao động gián tiếp với mức lương bình quân
60USD/ 1tháng qua đó c
ũng góp phần nâng cao mức thu nhập trung bình của
khu vưc nông thôn. Trong những ngày cuối của năm 2000, chúng ta cũng đã cấp
giấy phép cho dự án chế biến nông nghiệp với số vốn là 150 triệu USD.
Tất cả những tác động trên của hoạt động đầu tư cho nông nghiêp đã làm
cho khu vực này trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh dần qua các
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
thời kỳ. Trong thời kỳ 1986- 2000 tốc độ tăng trưởng của ngành nông lâm dịch
vụ là 3,1 % thì đến giai đoạn 1996- 2000 tốc độ tăng trưởng là 4,3%. Năm 2003,
tốc độ tăng trưởng của ngành khoảng 4,9% so với 2002.
Cũng do năng lực và năng suất trong nông nghiệp tăng nhanh kết hợp với
việc giải quyết việc làm cho địa phương nên thu nhập của khu vực nông nghiệp
tăng nhanh. Nă
m 2002, thu nhập trung bình 1 tháng của khu vực nông thôn là
274,9 nghìn đồng trong khi năm 1999 mức này là 255000 đồng.
Thu nhập từ những ngành nghề thủ công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp,… tăng
lên nhiều. Giai đoạn 1991- 2000, ngành nông nghiệp (gồm cả lâm thuỷ sản) thu

miền núi
Bác Bộ
2971,41 5,62 3802,21 5,32 4751,39 6,13 6368,91 7,88 17893,92 6,3
Tây
Nguyên
158484 3,0 177558 2,48 190745 2,46 216522 2,68 7433,09 2,6
ĐB SCL
744799 14,09 963754 13,49 1082295 13,96 1196811 14,81 39876,59 14,3
<nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư>
Hơn 10 năm 1991-2000, Nhà nước đã đầu tư vào các vùng này khoảng
22,1% vốn đầu tư cả nước trong đó, vốn NSNN chiếm khoản 28%. Vốn đầu tư từ
nguồn NSNN tập trung cho các công trình cơ sở hạ tầng, trong đó hạ tầng kỹ thuật
chiếm 63,5%, hạ tầng xã hội chiếm 34,7%, các ngành khác chiếm 1,8%.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
b) Hoạt động đầu tư được đa dạng và hiệu quả hơn góp phần phát triển các vùng
và đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Tại từng khu vực riêng biệt, Nhà nước cũng đầu tư theo các chương trỡnh mục tiờu.
Chương trỡnh dự ỏn định canh định cư tập trung chủ yếu vào hỗ trợ phát triển sản
xuất, khai hoang. Dự án này cũng tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để đồng bào
dân tộc ít người rời bỏ phương thức du canh du cư. Tính đến năm 2000, chương
trỡnh đó định cư cho khoảng 118000 hộ; tổ chức đi xây dựng vùng kinh tế mới
38925 hộ.
Chương trỡnh 327và 621 nhằm phủ xanh đất trống đồi núi trọc và trồng 5
triệu ha rừng, bảo vệ đất đai, cải t
ạo môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc
sống. Chương trỡnh này cũng tạo điều kiện để các hô nông dân tận dụng lợi thế về
đất đai và sức lao động nhằm thựchiện mô hỡnh nụng lõm kết hợp, trồng cõy ăn
quả và cây công nghiệp lâu năm trên diện tích có độ màu mỡ cao, trồng cây hang

ng 10% so với 2 năm 1999-2000.
+ Lồng ghép từ các chương trình, dự án khoảng 1300 tỷ đồng, tăng 62,5% so với
2 năm 1999-2000
+ Huy động từ cộng đồng khoảng 700 tỷ đồng, tăng 133% so với 2 năm
1999-2000. Huy động vốn tín dụng 8100 tỷ đồng, tăng 47,3% so với 2 năm
1999-2999
Hiện nay, Chính phủ tiếp tục huy động mọi nguồn lực có thể cho xoá đói
giảm nghèo. Tận dụng tối đa nguồn lự
c trong nước và tranh thủ sự ủng hộ và
giúp đỡ của quốc rế. Trong nước, năm 2003, chúng ta đã thực hiện rất nhiều
chương trình thiết thực vì người nghèo. Phong trào “Ngày vì người nghèo” diễn
ra khắp nơi. Chúng ta cũng tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Vừa qua, năm
2004, chúng ta đã nhận được cam kết tài trợ của UNDP cho xoá đói giảm nghèo.
Theo đó, UNDP sẽ tài trợ gần 300000 USD cho việc thí điể
m lồng ghép Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo vào kế hoạch phát triển
hàng năm và dài hạn của các tỉnh và tỉnh Trà Vinh sẽ là một trong những tỉnh
nghèo đầu tiên được thực hiện.
2.2. Nội dung và các hoạt động Đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo.
Nhà nước đã đầu tư cho xoá đói giảm nghèo thông qua các chương trình
mục tiêu của quốc gia.
Chương trình xoá đói giảm nghèo là một chươ
ng trình lớn của quốc gia,
có tính chất chiến lược ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
bền vững. Mục tiêu của chương trình này là giảm dần và xoá bỏ hộ đói, giảm hộ
nghèo, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Mỗi năm phấn đấu giảm 3- 4% hộ đói
nghèo. UNDP, WB và ADB thường trợ vốn cho các chương trình này.
Chương trình 135 là chuơng trình kinh tế xã hội tổng hợ
p, thực hiện trên địa
bàn các xã được công nhận là xã đặc biệt khó khăn (cả nước có trên 1700 xã).

chức 180 lớp khuyến nông cho khoảng trên 854 nghìn l
ượt người nghèo. Đây là
cách thức có hiệu quả lâu dài, một biện pháp tránh tái nghèo tốt nhất.
2.4. Những bất cập tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo.
a) Nguồn lực đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế, chưa cân đối với mục
tiêu chung nhất là nguồn vốn đầu tư từ NSNN, hàng năm mới chỉ có thể đáp ứng
được khoảng 15- 20% yêu cầu.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN

Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp, vừa phải đầu tư lớn cho sự phát triển
chung của đất nước vừa phải đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, trong khi đó việc
khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiệu quả. Một số định
hướng đầu tư đang trong quá trình điều chỉnh, khả năng tái đầu tư không đáng
kể, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Hơn nữa thị trường tài
chính đang hình thành nên huy động đầu tư còn yếu.
Các nguồn lực cho chương trình xóa đói giảm nghèo tuy có tăng lên qua các
năm, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các địa phương. Địa bàn trọng điểm
cần xóa đói giảm nghèo hiện nay là những vùng cao, vùng sâu có nhiều khó
khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và l
ạc hậu, suất đầu tư cao, chi phí lớn, khó thu hút
khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Đây thực sự là một thách thức lớn cho công tác
xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới.

b) Hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn chưa cao.

Do các dự án đầu tư này tại các vùng khó khăn thường xa TW nên ít chịu sự
giám sát chặt chẽ của các cấp TW. Trong khi năng lực cán bộ địa phương cho
công tác xoá đói giảm nghèo lại rất thấp, không đủ khả năng kiểm tra các công
trình đầu tư vốn lớn từ TW. Do vậy tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư

dự án XĐGN còn ch
ồng chéo và chưa tập trung, thống nhất. Cán bộ quản lý các
chương trình dự án đầu tư cho XĐGN thường phải kiêm nhiệm rất nhiều công
việc khác nhau gây nên sự quá tải đối với các công tác hành chính.
d) Tính bền vững của thành quả XĐGN chưa cao. Một bộ phận dân cư có nguy
cơ phát sinh nghèo và tái đói nghèo do sinh sống ở vùng thường xuyên bị thiên
tai, mất mùa, do thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, có thu nhập thấp và
không có tích luỹ
.
II. Đầu Tư cho các vấn đề phúc lợi xã hội.

1. Tình hình Đầu tư cho Giáo dục và tính CBXH trong giáo dục.
1.1. Tình hình đầu tư cho Giáo dục và đào tạo.
Phát triển GD ĐT nhằm tạo ra các cơ hội về việc làm mới và nâng cao thu
nhập qua đó thúc đẩy xoá đói giảm nghèo và thực hiện CBXH .
Nhà nước ta từ trước tới nay đều rất chú trọng đầu tư cho giáo duc. Ngân sách
giáo dục từ năm 1995 trở đi mỗi năm tăng 1% và năm 2000 ngân sách giáo dục
đạt 15% tổng ngân sách tiêu dùng. Giai đo
ạn 1996- 2000, vốn đầu tư cho giáo
dục là 15400 tỷ đồng chiếm 2,7 % vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ đầu tư cho giáo
dục từ vốn NSNN giai đoạn 1996-2000 là 6,6%. Trong giai đoạn 2001- 2003,
đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, tăng
15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đó đạt tương ứng là
12,7% và 8,1% vốn đầ
u tư toàn xã hội. Cũng trong giai đoạn 2001- 2003, tỷ lệ
đầu tư cho khoa học và cụng nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status