Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam VietinBank - pdf 12

Download Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam VietinBank miễn phí

1. Bối cảnh
Việt Nam (VN) bước vào năm 2010 với một số thành quả kinh tế khá ấn tượng cả trong và ngoài nước. Tăng trưởng kinh tế năm 2009 là 5,3% (so với mức trung bình của thế giới là -0,8% i), lạm phát 6,5% (so với mức 19,9% năm 2008), thâm hụt tài khoản vãng lai 7,8% (so với năm 2008 là 11,9% GDP). Tuy nhiên, các thách thức vĩ mô của VN cũng không phải là nhỏ. Mở cửa, khủng hoảng tài chính toàn cầu và việc theo đuổi các chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng nhằm hỗ trợ nền kinh tế kể từ giữa năm 2008 đã gây áp lực lớn đối với môi trường vĩ mô của VN, thâm hụt tài khóa tăng mạnh, nhập siêu leo thang và ở mức cao, các áp lực lạm phát và giảm giá đồng VN luôn tiềm ẩn... Chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế liên tục suy giảm trong các năm 2007, 2008
Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã có những quyết sách về kinh tế vĩ mô trong nước, hướng tới sự ổn định, đồng thời vẫn tiếp tục hỗ trợ các khu vực còn khó khăn của nền kinh tế.

Chính sách tiền tệ được điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn: chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho cả năm là 25% (so với mức tăng thực tế là gần 40% năm 2009); cung tiền M2 tăng khoảng 20–22% (so với mức tăng là 29% năm 2009); thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn; xoá bỏ hỗ trợ lãi suất ngắn hạn; xoá bỏ trần lãi suất đối với các khoản cho vay trung- dài hạn (vào tháng 2) và toàn bộ các khoản cho vay vào tháng 4; thông tư 13...

Chính sách tài khoá: quán triệt quan điểm điều hành chính sách tài khoá thận trọng, giảm bội chi NSNN, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia; thực hiện dừng các chính sách miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp và cá nhân đã thực hiện trong năm 2009 (chỉ thực hiện giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khó khăn); đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thu đúng, thu đủ các khoản thu; tăng cường quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách theo đúng quy định của Luật NSNN và các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu đã ban hành, đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí; giảm dần chi đầu tư Nhà nước, tăng cường huy động đầu tư xã hội.Đẩy mạnh cải cách hành chính theo đề án 30 của Chính phủ nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong nền kinh tế.
Khu vực đầu tư nước ngoài có cải thiện vượt bậc, từ tốc độ tăng là -30% vào quí 1/2009, đã đạt mức tăng trưởng +20% vào quí 1/2010. Tốc độ tăng đầu tư khu vực ngoài nhà nước quí 1/2010 (48,4%) cũng cao hơn đáng kể tốc độ tăng 30% cùng kỳ năm 2009. Tuy nhiên sang quí 2/2010, tốc độ tăng đầu tư của các khu vực lại thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm 2009, ngoài trừ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể đây là thời điểm thể hiện đầy đủ các tác động của việc điều chỉnh chính sách tài khoá, tiền tệ ( với độ trễ là khoảng 1 quí). Tốc độ tăng vốn đầu tư khu vực Nhà nước 6 tháng chỉ bằng ½ tốc độ tăng cùng kỳ năm 2009, trong khi tốc độ tăng đầu tư khu vực ngoài Nhà nước chỉ trên ¼ tốc độ tăng cùng kỳ của nguồn vốn này năm 2009. Tuy nhiên, với việc kiểm sóat được lạm phát ở mức thấp, áp lực trên thị trường ngoại tệ dịu đi (sau 2 lần điều chỉnh tỷ giá vào tháng 2, giảm giá VND 3,4%; và vào tháng 8, giảm giá VND 2,1% năm 2010), các điều kiện tiền tệ, tín dụng đã được nói lỏng. Đầu tư khu vực ngoài nhà nước đã có những cải thiện vào quí 3, với tốc độ tăng nguồn vốn đầu tư khu vực này trong 9 tháng đầu năm đã vượt lên so với tốc độ tăng cùng kỳ năm 2009, với các con số tương ứng là 17% so với mức 12,6%. Tốc độ tăng vốn đầu tư khu vực Nhà nước 9 tháng năm 2010 là 14%, so với mức tăng cùng kỳ là 20%.
Cơ cấu đầu tư, do vậy, đã có những cải thiện nhất định, theo hướng giảm đầu tư khu vực Nhà nước, tăng huy động vốn trong nền kinh tế và từ bên ngoài.
Xuất khẩu hàng hoá năm 2010 đã đảo ngược trạng thái, từ chỗ kim ngạch xuất khẩu luôn giảm năm 2009 (so với cùng kỳ năm 2008), sang tăng với tốc độ khá cao qua các quí năm 2010 (quí 1 tăng 3,8%, nếu loại vàng, giảm 1,6%; quí 2 tăng 22,4%, loại vàng thì tăng 15,7%; quí 3 tháng 24,4%, loại vàng thì tăng 23,2%).
Nhập khẩu phục hồi mạnh mẽ hơn nhiều. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu các quí năm 2010 ở mức rất cao ( quí 1 là 37,6%, quí 2 là 29,4%, quí 3 là 22,7% ) so với mức giảm sâu cùng kỳ năm 2009 (quí 1 là -46,7%, quí 2 là -34,1%, quí 3 là -25,2%).
Tuy nhiên, tương quan tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu đã được cải thiện dần, trong đó tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng, trong khi tốc độ tăng trường kim ngạch nhập khẩu được kiềm chế giảm. Cộng với những cải thiện về kiều hối, doanh thu du lịch, thâm hụt tài khoản vãng lai đã thu hẹp.
Tăng trưởng xuất nhập khẩu (% so với cùng kỳ) Cơ cấu hàng nhập khẩu (%)

Nguồn: Tổng cục thống kê, online, Thời báo kinh tế năm 2010
Cán cân vốn đã dần lấy lại được trạng thái trước khi khủng hoảng, đạt thặng dư vào quí 2/2010 nhờ sự quay trở lại của các luồng vốn nước ngoài, sau khi rơi vào thâm hụt từ đầu năm 2009 do tác động của khủng hoảng với sự sụt giảm xuất khẩu và sự tụt dốc nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Dự trữ ngoại hối, do vậy, cũng đã có những cải thiện nhất định.
Ảnh hưởng củaThông tư 13
Sau một quá trình soạn thảo khá dài, ngày 20/05/1010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chính thức ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD.
Thông tư này sẽ có hiệu lực từ 01/10/2010. Tính tích cực được thể hiện ở chỗ: một mặt, dần dần hoàn thiện các tỷ lệ an toàn của NHTM theo thông lệ quốc tế. Mặt khác, đảm bảo vai trò quản lý của NHNN. Tuy nhiên, lộ trình thực hiện các quy định của thông tư này đồng thời với quá trình tăng vốn lên 3000 tỷ đồng đang tạo ra những khó khăn nhất định cho các NHTM cũng như tác động đến tâm lý đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Thông tư 13 là một thông tư dài và nhiều nội dung, chủ yếu liên quan tới Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Trong đó, có một số nét chính:
• Nâng hệ số an toàn vốn CAR từ 8% lên 9%
• Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động (Đáng chú ý vốn huy động theo quy định mới này sẽ không còn bao gồm: Vốn tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, vốn tự có của NHTM, vốn đầu tư của tổ chức)
Đây là một chủ trương đúng đắn trong việc đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống NHTM nói riêng và hệ thống tài chính tiền tệ nói chung theo tiêu chuẩn quốc tế. Lộ trình chuẩn bị thực hiện cũng là một lộ trình tương đối dài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, việc thực hiện quy định của Thông tư 13 sẽ gây nên những tác động theo chiều hướng không thuận lợi trong ngắn hạn:
Là một trong những nguyên nhân chính cản đà giảm của lãi suất
• Nhìn chung, Thông tư 13 là một chính sách về chủ trường thì đúng song chứa đựng rất nhiều điểm chưa hợp lý, và là một nguyên nhân chính cản đà giảm của lãi suất. Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động trong đó nguồn vốn để cung ứng tín dụng tín dụng không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, vốn tự có của NHTM, đầu tư của tổ chức sẽ càng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng.
Chưa tính đến việc các khoản này chiếm khoảng 15% vốn huy động, khiến cho quy định này thực chất đã giảm tỷ lệ cho vay so với vốn huy động tổng thể xuống còn khoảng 60-65%, mà chỉ nói đến quy định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động, thì riêng điều này đã tạo thêm một cái khóa nữa cho ngân hàng trong nỗ lực tăng trưởng tín dụng.
Theo tìm hiểu, quy định này cũng chưa từng có trong thông lệ quốc tế, và nó có thể chồng chéo với các quy định về quản lý nợ có, dự trữ bắt buộc v.v… Đây là một điểm có lẽ còn chưa thật hợp lý nếu ban hành quy định này vào thời điểm này. Tác động ngắn hạn của nó sẽ làm giảm đà tăng của tín dụng, và lãi suất sẽ khó giảm trong ngắn hạn.
• Cùng lúc với việc thực hiện thông tư 13/TT-NHNN, các NH lại bị điều chỉnh bởi quy định chỉ được huy động trên thị trường 2 tối đa 20% số vốn huy động thị trường 1. Các Ngân hàng buộc phải tăng huy động từ dân nếu muốn tăng vay trên thị trường 2, điều này khiến các ngân hàng phải cạnh tranh gay gắt trong việc lấy thị phần và nguồn huy động từ các chi nhánh mới.
Do đó, lãi suất vẫn chưa thể hạ nhiệt trong khi cung vốn tín dụng từ NHTM lại đang bị hạn chế.
Khó khăn cho việc tăng khả năng tạo tiền
• Quy định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động là quy định chưa có thông lệ trên thế giới. Có thể chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt trong các giai đoạn mất an toàn. Quy định này làm giảm khả năng tạo tiền và số nhân tiền tệ của hệ thống ngân hàng, vì một khoản tiền lớn huy động được sẽ không dành để cho vay mà có thể nằm “chết” tại các NHTM.
• Đồng thời làm giảm hiệu quả can thiệp giảm lãi suất của NHNN qua thị trường mở, cho vay liên ngân hàng theo định hướng của NHNN. Thực chất, sự cạnh tranh tăng lãi suất tiết kiệm vẫn lấn át định hướng giảm của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và OMO nên sự hạ nhiệt chưa truyền tải tới lãi suất tín dụng doanh nghiệp. Vì vậy, mặt bằng lãi suất chưa thể hạ ngay và khả năng cung cấp tín dụng của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng bị hạn chế.
Có khả năng gây những tác động không tích cực đến khả năng hồi phục của thị trường chứng khoán


Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status