Tiểu luận Giải pháp quản trị rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê - pdf 12

Download Tiểu luận Giải pháp quản trị rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê miễn phí



Giá cà phê Việt Nam khi mua bán trên thị trường thế giới bị ép giá (giảm mạnh) là do tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường, hoàn toàn không tuân theo quy luật cung cầu. Các quỹ đầu cơ đã cố tình bóp méo thị trường để kiếm lợi. Các nhà đầu cơ tung tin giá cà phê sẽ tăng đột biến, khiến các doanh nghiệp Việt Nam đua nhau đầu cơ tích trữ. Nhiều doanh nghiệp vay “nóng” tiền vốn trong ngắn hạn để mua cà phê, đến khi đáo hạn doanh nghiệp chịu áp lực buộc phải bán ra thu hồi vốn để trả nợ. Sau đó các quỹ đầu cơ trên sàn London ngừng mua để đẩy giá xuống thấp, và lại tung tin rằng giá cà phê từ nay đến cuối năm sẽ tiếp tục giảm mạnh, khiến doanh nghiệp Việt Nam đã trót tích trữ cà phê buộc phải bán tháo ra. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã lâm vào tình trạng như vậy và đang phải chịu lỗ 3-4 triệu đồng/tấn cà phê, thậm chí có thể nhiều hơn nếu giá biến động giảm mạnh. Trong khi đó, việc hỗ trợ từ phía chính phủ và Hiệp Hội cà phê Việt Nam là còn hạn chế, chưa đủ để giúp các DN Việt Nam thoát khỏi tình trạng này.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-29838/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

gười trồng cà phê đã loại bỏ cây che bóng, đồng thời tăng cường bón phân hóa học, lượng nước tưới v.v… nhằm mục đích đạt được năng suất tối đa. Những biện pháp thâm canh cao độ này không những đã làm cho cây cà phê nhanh chóng bị kiệt sức, sớm già cỗi mà còn làm cho môi trường đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, làm phát sinh nhiều loại sâu, bệnh hại, trong đó đặc biệt là nấm bệnh và tuyến trùng hại rễ. Thực tế trong những năm qua đã có hàng chục ngàn ha cà phê bị bệnh không có khả năng phục hồi phải thanh lý và nhiều diện tích cà phê già cỗi sau khi thanh lý cũng không có khả năng trồng lại được cà phê.
Thiếu hụt lao động, chi phí sản xuất ngày một tăng cao. Quá trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê đòi hỏi rất nhiều công lao động. Để thực hiện các khâu chăm sóc làm cỏ, bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh hại v.v… và thu hoạch trong một năm, trung bình 1 ha cà phê cần từ 300 – 400 công lao động, trong đó riêng công thu hái chiếm tới trên 50%. Trước đây vào thời kỳ thu hoạch cà phê thường có hàng ngàn lao động từ các tỉnh ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu long đến vùng Tây nguyên để tham gia thu hái cà phê, nhưng bắt đầu từ một hai năm trở lại đây số lao động ở các vùng này đến Tây nguyên vào mùa thu hoạch cà phê đã giảm đi rõ rệt. Do mang tính chất thời vụ rất khắt khe, trong khoảng thời gian thu hái rất ngắn chỉ khoảng 2 tháng đòi hỏi số công lao động rất lớn chiếm trên 50% số công trong năm đã làm cho tình trạng thiếu hụt lao động càng trở nên trầm trọng, từ đó đẩy giá ngày công lên cao. Trước sức ép về thiếu hụt lao động và chi phí ngày công tăng cao, để giảm chi phí công thu hái người nông dân có xu hướng giảm số lần thu hái xuống còn một đến 2 lần dẫn đến chất lượng cà phê bị giảm sút do thu hái quả xanh và thiếu hụt điều kiện phơi xấy.
Quá trình công nghiệp hóa không những không thu hút được lực lượng lao động đến từ các vùng khác mà ngay cả một bộ phận lực lượng lao động thanh niên trẻ, khỏe từ các vùng trồng cà phê về các thành phố, khu công nghiệp làm cho lực lượng lao động trong ngành cà phê ngày càng thiếu hụt trầm trọng. Như vậy có thể thấy trước rằng trong những năm tới việc thiếu hụt lao động sẽ là một áp lực nặng nề cho người trồng cà phê và chi phí công lao động sẽ ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi phí sản xuất. Lợi thế cạnh tranh về giá ngày công lao động rẻ trong ngành cà phê Việt nam so với các nước khác sẽ không còn.
Cùng với sự thiếu hụt lao động và chi phí nhân công tăng cao, giá cả vật tư phân bón, xăng dầu v.v… cũng đang có xu hướng ngày càng tăng cao sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng lên, lợi nhuận thu được từ sản xuất cà phê sẽ ngày một giảm sút. Thực tế trong năm vụ 2007 – 2008 tuy giá cà phê có tăng cao nhưng do chí phí công lao động và vật tư phân bón v.v… tăng cao nên người trồng cà phê vẫn không thu được nhiều lợi nhuận.
Sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, trên 80% diện tích cà phê cả nước do các hộ nông dân trực tiếp quản lý, số diện tích cà phê còn lại thuộc các doanh nghiệp Nhà nước quản lý, nhưng sau khi thực hiện cơ chế giao khoán đến từng người lao động thì số diện tích này thực chất cũng do hộ nông dân quản lý. So với nhiều nước trồng cà phê trên thế giới thì các hộ nông dân trồng cà phê của Việt nam đều thuộc dạng nhỏ, lẻ, diện tích hẹp trung bình từ 0,5 – 1ha và mang tính tương đối độc lập. Số hộ gia đình có diện tích lớn trên 5 ha và sản xuất dưới hình thức trang trại chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Do hình thức tổ chức sản xuất dưới dạng hộ gia đình phân tán, nhỏ lẻ và tương đối độc lập dẫn đến suất đầu tư/ tấn sản phẩm của từng hộ gia đình nói riêng và toàn ngành cà phê nói chung tăng cao do hộ gia đình nào cũng phải tự mua sắm máy bơm, phương tiện vận chuyển, máy xay xát v.v… đầu tư xây dựng sân phơi, kho tàng, v.v… nhưng hiệu quả sử dụng thấp vì chỉ sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn trong năm từ đó làm tăng chí phí sản xuất dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Việc tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ cũng như các dịch vụ khác như vay vốn tín dụng, ngân hàng v.v… cũng hết sức khó khăn, do diện tích nhỏ, manh mún và khả năng tài chính hạn hẹp. Nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, trong đó đặc biệt là nguồn nước ngầm và tài nguyên rừng. Cũng do hình thức tổ chức theo kiểu sản xuất, nhỏ lẻ, phân tán và tính độc lập tương đối của các hộ gia đình nên sản phẩm làm ra không những chất lượng không cao mà còn không ổn định do điều kiện hiểu biết và mức độ đầu tư cho khâu thu hái chế biến khác nhau, từ đó làm cho chất lượng cà phê của toàn ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc xây dựng thương hiệu, chứng chỉ chất lượng hàng hóa khó có thể thực hiện được. 1.2. Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Theo như số liệu thống kê và biểu đồ trên ta thấy diện tích trồng cà phê của Việt Nam tăng đều từ năm 1990 đến năm 2001. Khi đạt đến mức 535.000ha vào năm 2001 thì diện tích cà phê gần như không tăng mà có xu hướng giảm nhẹ. Từ năm 2002 cho đến nay diện tích trồng cà phê ở Việt Nam chỉ giao động ở quanh mức 500.000ha là do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa ra Chỉ thị về phát triển cà phê. Theo đó, bộ quy định diện tích đất trồng cà phê chỉ ở 500.000ha, hướng đến tăng năng suất trồng trên mỗi ha. Đặc biệt vào năm 2008, diện tích đất trồng cà phê tăng lên tới 520.000ha là do giá cà phê tăng đột biến nên người dân đã đua nhau phá rừng trồng cây cà phê.
Theo như số liệu thống kê, từ năm 1990 đến năm 1995, sản lượng xuất khẩu cà phê tăng đều do diện tích trồng cà phê tăng. Đặc biệt, tình trạng thiếu hụt cà phê lớn trong những năm 1994-1995 đã làm cho giá cà phê tăng đột biến 2393,56 USD/tấn.
Từ năm 1996 đến 2002 sản lượng xuất khẩu vẫn tăng nhưng giá trị xuất khẩu tăng giảm không ổn định. Giai đoạn 1999-2002, do cung vượt quá cầu nên giá cà phê xuất khẩu giảm chưa từng thấy nên mặc dù sản lượng xuất khẩu cao hơn so với những năm trước nhưng giá trị xuất khẩu sụt giảm.
Niên vụ 2002-2003, sản lượng cà phê xuất khẩu giảm do thời tiết khô hạn kéo dài tại các tỉnh Tây Nguyên và một số nước xuất khẩu lớn vào năm 2002. Đến đầu năm 2003 nguồn cà phê của các nước xuất khẩu bị hạn chế trong khi nhu cầu mua vào của các nhà đầu tư, các nhà máy rang xay trên thế giới tăng đã thúc đẩy giá tăng nhanh hơn.
Những năm tiếp theo (2004 đến 2006) sản lượng xuất khẩu cà phê ở tăng so với năm trước, sản lượng trung bình khoảng 838.000 tấn. Kể từ niên vụ 2004-2005, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê bắt đầu áp dụng cách hợp đồng kỳ hạn với thị trường cà phê thế giới. Điều này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong xuất khẩu cà phê. Người trồng cà phê và doanh nghiệp trong nước không còn bị thiếu thông tin hay phải bán với giá quá thấp so với thị trường thế giới nữa.
Niên vụ 2007- 2008, cả nước xuất khẩu được 1.077.375 tấn cà phê nhân, đạt giá trị kim ngạc...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status