Biện pháp nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ trong ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hiện nay - pdf 12

Download Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ trong ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hiện nay miễn phí



Một điều hết sức hiển nhiên là nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ. Với lực lượng lao động khoảng 46 triệu người, Việt Nam có thể cung cấp một lượng lao động lớn mà không gặp bất kỳ một trở ngại nào. Tuy nhiên, Việt nam lại thiếu lực lượng kỹ sư có trình độ trung cấp đến cao cấp. Số lượng kỹ sư tốt nghiệp đại học được tuyển dụng có đủ năng lực thể đáp ứng các nhu cầu về quản lý lại rất thiếu, đặc biệt là ở miền Bắc. Một phần của thực trạng này là việc đào tạo thực hành khoa học và kỹ thuật (kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật điện, hoá ứng dụng .) trong các trường đại học còn rất yếu, và vì thế đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc trang thiết bị phục vụ cho hoạt động này cũng thiếu. Sự thiếu nhiệt tình trong quá trình tiếp thu những kiến thức thực tế cũng là một vấn đề nảy sinh từ phía sinh viên ở các trường.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-30666/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

t triển của xã hội.Trong quy hoạch ngành công nghiệp ô tô đã xác định sẽ xây dựng ngành công nghiệp ô tô trở thành một ngành rất quan trọng vào năm 2020.Sở dĩ như vậy là vì ngành công nghiệp ô tô tạo cơ sở để nâng cao mức sống mức tiện nghi của con người đồng thời cũng tạo ra việc làm cho người lao động. Tầm quan trọng ấy được thể hiện qua một số vai trò sau:
Là ngành sản xuất phương tiện đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và cung cấp phưng tiện cho nghành giao thông vận tải.
Góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội : Giải quyết phần lớn việc làm cho lượng lao động dư thừa, hạn chế tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm thu nhập cao bình ổn đời sống cho người lao động.
Thúc đẩy quá trình tập trung hoá sản xuất và phân công lao độg xã hội. Từ sự phát triển của nghành công nghiệp ô tô đã hình thành một số cụm công nghiệp tập trung sản xuất chuyên môn hoá.ví dụ cum công nghiệp ô tô Nguyên Khê – Đông Anh, cụm CN ô tô Thủ Đức – TP Hồ Chí Minh.
Công nghiệp ô tô là một nghành công nghiệp hiện đậi đồi hỏi công nghệ cao, vì vậy nó thúc đẩy phát triến công nghệ bằng nhiều con đường khác nhau, có doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, cũng có doanh nghiệp thúc đẩy chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài. Đồng thời cũng góp phần phát triển nguồn nhân lực và cách quản lý.
Nếu biết cách giải quyết tốt thì ô tô còn góp phần cải thiện môi trường vì các tiêu chuẩn khí thải cao. Làm đẹp đô thị và hiện đại hoá cuộc sống, tiện nghi và thoải mái.
Công nghiệp ô tô thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ:cứ một đồng vốn bỏ vào ngàh công nghiệp ô tô thì cần tám đồng vốn cho các ngành công nghiệp phụ trợ.Trong tương laikhi nhu cầu ô tô tới hàng triệu xe một năm thì thì ngành công nghiệp ô tô và các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.
1.5.2.Thực trạng của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hiện nay.
1.5.2.1.Thành tích đạt được của ngành công nghiệp ô tô Việt nam.
Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô của Việt Nam bao gồm 2 khối: FDI và các DN trong nước. 12 trong tổng số 17 DN FDI được cấp phép đầu tư tại Việt Nam đang hoạt động có tổng vốn đầu tư khoảng 1 tỉ USD, năng lực sản xuất 150.000 xe/năm, chủ yếu là xe du lịch, xe đa dụng. Hiện đã có 47 DN trong nước đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô với tổng mức đầu tư hàng chục nghìn tỉ đồng, chủ yếu sản xuất các loại ô tô bus, xe khách, xe tải nhỏ và nặng, các loại xe chuyên dùng. Tuy nhiên, ảnh hưởng nhiều nhất đến thị trường ô tô trong nước là các sản phẩm xe con 4-9 chỗ ngồi, giá bán của những loại xe này cũng như các mức thuế đi kèm với nó luôn là đề tài nóng bỏng trên thị trường.
    Thị trường ô tô trong nước khoảng 5 năm trở lại đây đã tăng mạnh, nhiều lúc rơi vào tình trạng cung không đủ cầu. Đơn cử như thời điểm này, nhiều DN đã phải làm ba ca mỗi ngày và nâng hết công suất nhưng cũng không đủ cung cấp ô tô cho thị trường. Đến hết tháng 9/2007, lượng xe bán ra của các DN FDI đạt 32.000 chiếc, nhiều DN đã có đơn đặt hàng của người tiêu dùng từ vài trăm đến cả ngàn chiếc xe cho đến hết năm 2007 và một số tháng đầu năm 2008.
Việt nam hiện nay là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO nên vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao,thu hút đầu tư tăng,nhu cầu của nền kinh tế phát triển nhanh cùng với những chính sách mới về thuế,về xuất nhập khẩu đã tạo ra những chuyển động mạnh mẽ tronglĩnh vực công nghiệp sản xuất,kinh doanh ô tô.theo số liệu của Hiệp Hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam(VAMA) trong tháng 5/2007 số lượng xe bán được là 5.580 chiếc tăng 59% so với cùng kỳ năm 2006,tăng 19% so với tháng 4,trong đó xe 5 chỗ ngồi tănggấp 2 lần và xe đa dụng tăng 25%.Dự báo đến năm 2010sẽ tăng lên 3065040chiếc.
1.5.2.2.Những khó khăn của ngành công nghiệp ô tô.
Kết cấu hạ tầng yếu kém.
Tính đến hết năm 2000, hệ thống đường bộ Việt Nam có 210.447 km, trong đó 169.005 km là đường nông thôn và chỉ có 3.211 km đường đô thị. Phần lớn lòng đuờng hẹp, chất lượng xấu. Diện tích dành cho giao thông tính trong các đô thị (bãi đỗ xe, nhà đỗ xe) qá ít ỏi, chỉ có 0.7 % trong khi ở các đô thị hiện đại là 5- 7%.
Nhu cầu về ô tô của thi trường Việt Nam tương đối nhỏ.
Chỉ khoảng 60.000 xe/ năm, trong khi đó ASEAN là 2,1 triệu xe/năm, Trung Quốc là 5,2 triệu xe/ năm, Nhật Bản 5,9 triệu xe/ năm…Đến nay, số lượng xe ô tô ở Việt Nam mới chỉ đạt 8 xe/ 1000 dân, trong khi ở Trung Quốc là 24 xe/ 1000 dân, Thái Lan là 152 xe/1000 dân, Hàn Quốc 228 xe/ 1000 dân, Mỹ là 682 xe/ 1000 dân…
CHLB Đức có dân số gần như Việt Nam (khoảng 83 triệu dân), diện tích cũng gần bằng nhau (khoảng 330.000 km2). Nhưng lượng ô tô ở việt nam là khoảng 670.000 chiếc và 18 triệu xe gắn máy, trong khi ở Đức có 52 triệu ô tô và khoảng 7 triệu xe gắn máy (diện tích sử dụng mặt bằng một xe ô tô bằng 8 chiếc xe gắn máy).
Một số nhận xét cho rằng cầu ô tô trên thị trường Việt Nam là cung cầu giả tạo. Vì giá ô tô quá cao so với khả năng của người tiêu dùng, lượng lớn ô tô sản xuất ra được mua bằng công quỹ, bằng ngân sách nhà nước ( mua làm xe công). tất nhiên đối tượng này cũng vẫn là khách hàng và họ được xếp vào “thị trường của tổ chức”chứ không phải “thị trường người tiêu dùng cá nhân”.Và sức mua của đối tượng này là rất lớn ở bất kì quốc gia đang phát triển nào cũng được chú trọng, được chăm sóc quá nhiệt thành. Nhưng ở Việt Nam đã quá chú trọng đến đối tượng khách hàng ấy nên làm cho thị trường bị bóp méo và quá phị thuộc vào các quyết điịnh hành chính. Đây cũng là nguyên nhận chính cho giá xe cao vì khi khách hàng mua xe bằng công quỹ thì “không tiếc tiền”, vaf thị trường ô tô bỗng chốc trở lên ảm đạm sau quyết định 25/20 Ngành sản xuất ô tô Việt Nam, 06/QĐ- TTg của thủ tướng chính phủ về thực hành tiết kiệm với nội dung “Từ ngày 01/06/2006 sẽ tạm dừng mua xe bằng ngân sách.
Nghành công nghiệp phụ trợ cho nghành công nghiệp này hiện tại còn chưa phát triển.
Hiện tại ở Việt Nam mới có gần 40 nhà sản xuất FDI và 30 nhà sản xuất trong nước cung cấp linh kiện cho ô tô. Theo ông Phan Đắc Tuất, viện trưởng viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp: Hiện Việt Nam còn có quá ít nhà phụ trợ. Theo tính toán,một chiếc ô tô có từ 20.000 đến 30.000 chi tiết và để sản xuất được 1 chiếc ô tô cần đến hàng ngàn nhà cung cấp linh kiện, và để tránh khỏi lắp ráp giản đơn thì một doanh nghiệp ô tô phải cần tối thiểu 20 nhà cung cấp linh kiện khác nhau . Tuy nhiên, cho đến nay chưa doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô nào tại Việt Nam có được 20 nhà cung cấp linh kiện trong nước.
Thị trường linh kiện đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé vì không ai dám đầu tư vào nghành này vì nó quá phức tạp : vốn đầu tư cao vì đó là ngành cơ khí chính xác và độ an toàn tuyệt đối, đòi hỏi chất lượng cao và kĩ thuật cao, trong khi ở Việt Nam công nghệ lạc hậu, muốn phát triển bắt buộc phải đầu tư chuyển giao công nghệ từ nước ngoài… nên xác định đ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status