Tiểu luận Chuyển giao công nghệ dệt may ở Việt Nam - pdf 12

Download Tiểu luận Chuyển giao công nghệ dệt may ở Việt Nam miễn phí



Từ những năm 1970, vải dệt kỹ thuật đã được nghiên cứu và phát triển bởi chúng có nhiều ưu điểm như bền, thân thiện với môi trường và có phạm vi ứng dụng rộng rãi.
Hiện nay, quy mô thị trường của vải dệt kỹ thuật đang phát triển rất nhanh. Loại vải dệt này có thể được sử dụng để sản xuất nhiều sản phẩm từ găng tay cho tới vỏ dây điện. Ngay cả trong kiến trúc, loại vải này cũng hứa hẹn sẽ đem lại nhiều tính năng hữu dụng. Nó có thể tạo ra một thị trường lớn hơn, mang lại lợi nhuận cao hơn.
Một trong những công ty tiên phong trong lĩnh vực vải dệt kỹ thuật ở Hàn Quốc là Silverstar, thuộc Tập đoàn Guro-một tổ hợp công nghiệp chuyên sản xuất các loại sợi cực nhỏ (mỏng hơn 100 lần so với sợi tóc người) cho thị trường trong và ngoài nước. Nó có khả năng hút nước, làm ấm, nhẹ và thoáng khí và được dùng để sản xuất khăn lau các thiết bị sản xuất chất bán dẫn. Tháng 3-2004, công ty đã ký được hợp đồng cung cấp sản phẩm này cho hai doanh nghiệp là LG và Philips LCD. Sản phẩm này đang được kiểm tra chất lượng tại các công ty 3M, Toshiba, NEC và Intel.
Vừa qua, một công ty dệt may hàng đầu khác tại Hàn Quốc là Kolon Industries cũng đã quyết định sản xuất sợi Aramid. Theo Kolon, sợi Aramid có độ dai rất cao, chịu được nhiệt độ lên đến 500 độ C và có khả năng miễn nhiễm cao đối với hóa chất.
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-32606/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ng Đông Âu giảm mạnh.
1.3 Vấn đề và chiến lược khắc phục:
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập WTO thì ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Dệt may Việt phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn, đặc biệt từ phía Trung Quốc. Hạn ngạch dệt may của Trung Quốc vào thị trường EU hết hạn. Hàng rào bảo hộ tại thị trường nội địa sẽ không còn. Thuế XNK hàng dệt may từ các nước ASEAN vào Việt Nam cũng sẽ giảm từ 40-50% xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực ngay tại thị trường nội địa.
Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài...
Vấn đề bức xúc hiện nay là hàng vải sợi, may mặc từ nước ngoài tràn vào từ nhiều nguồn (hàng trốn lậu thuế, hàng cũ) giá rất rẻ đã làm cho sản xuất trong nước bị ảnh hưởng. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước chưa có tổ chức, để thả nổi cho một số tư thương làm giả nhãn mác một số công ty có uy tín. Bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa tạo được các kênh tiêu thụ ngay ở thị trường trong nước. Do vậy, để các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam làm chủ được thị trường nội địa không có biện pháp nào khác ngoài việc phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, bán buôn và bán lẻ.
Trong Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt đến năm 2010, đã được Chính phủ phê duyệt, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 10 tỷ đô la Mỹ, thu hút từ 4 đến 4,5 triệu lao động, tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa ở sản phẩm dệt may xuất khẩu đạt trên 75% là hoàn toàn có khả năng thực hiện được.Dự tính, trong 10 năm tới, số kỹ sư công nghệ cần có thêm là 50.000 người và số cán bộ quản lý doanh nghiệp là 5.000 người cho các chương trình đầu tư mở rộng dệt may. Ngoài ra, số cán bộ công nhân viên hiện có của ngành là khoảng 40.000 người và 3.000 cán bộ quản lý doanh nghiệp cũng cần được cập nhật hóa kiến thức thường xuyên.
Ngành Dệt May Việt Nam đã đề ra 4 giải pháp lớn phải đồng bộ thực hiện, đó là: đổi mới công nghệ, ổn định chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản xuất để tăng sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Đầu tư mở rộng quy mô sản xuất từ khâu may đến khâu sản xuất vải và phụ liệu may, bông xơ sợi cho sản xuất vải; trong đó, đầu tư cho các nhà máy may hiện đại may hàng Fob (xuất khẩu trực tiếp) ở trung tâm hai thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; mở rộng mạng lưới may gia công ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Cùng với việc quy tụ các nhà máy mới vào 10 cụm công nghiệp dệt là phát triển mạnh vùng bông ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, ngành sẽ đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, xây dựng mạng lưới bán buôn bán lẻ trong nước và các thay mặt thương mại quốc tế; áp dụng ngay cách kinh doanh mới như thương mại điện tử và cuối cùng là đào tạo nguồn nhân lực. Qua phân tích các thuận lợi khó khăn và thách thức thì vấn đề đổi mới công nghệ, nâng cao năng lục sản xuất từ đó nâng cao chất lưọng sản phẩm để các sản phẩm dệt may của Việt Nam có khả năng cạnh tranh với dệt may Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia...
II.THỰC TRẠNG DỆT MAY VIỆT NAM:
_Trong ngành Dệt-May Việt Nam, cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hay hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt- may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm- hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hoá chất, chất trợ, thuốc nhuộm và các công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau đây. Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều PVA làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hoá học) trong nước thải và PVA khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000- 8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bằng kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt – nhuộm hiện nay, có khoảng 300- 400 mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3- 4 lần) đoán sẽ tăng lên mức 700- 800mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai.
Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là ô nhiễm nước thải không được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt- nhuộm phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, mới đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như để phát triển sản xuất, xuất khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn “Eco friendly” về môi trường.
_Chi phí cho một đơn vị sản phẩm đều cao hơn từ 15-20% mặt hàng tương tự của Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan. Giới phân tích khẳng định, giá lao động Việt Nam rẻ nhất khu vực châu Á, từ 0,16-0,35 USD/giờ (Indonesia là 0,32 USD/giờ, Trung Quốc 0,70 USD/giờ, Ấn Độ 0,58 USD/giờ...). Tuy nhiên, năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nói chung chỉ bằng 2/3 mức bình quân các nước ASEAN, chi phí nguyên phụ liệu (phần lớn phải nhập khẩu) và khâu trung gian cao làm sản phẩm thiếu tính cạnh tranh.
- Mỹ hạn chế bằng quota từ giữa 2003. Mức tăng trưởng cao của Việt Nam thời gian qua với trên 20 mã hàng vượt quá 1% tổng thị phần nhập khẩu khiến Mỹ đưa ra yêu cầu xúc tiến đàm phán và hiện đã ký Hiệp định dệt may với Việt Nam.
- EU là bạn hàng truyền thống, với khối lượng nhập khẩu hàng chỉ đứng sau Mỹ. Song hai năm gần đây có xu thế sụt giảm.Năm 2002 chỉ còn 550 triệu USD so với 660 triệu USD năm 2001. Riêng mặt hàng chủ lực là áo jacket, năm qua giảm tới 3 triệu sản phẩm (còn gần 17 triệu sản phẩm).
- Nhật Bản: Hàng dệt may Trung Quốc hiện đang tràn ngập thị trường. Trung Quốc chiếm gần 90% tổng trị giá hàng dệt may nhập khẩu vào Nhật trong khi đó, Việt Nam chỉ chiếm 3-5%.
- Australia: Doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa khai thác được hết tiềm năng, với mức xuất khẩu chỉ đạt 25 triệu USD (2002).
- Châu Á: Là thị trường lớn với GDP đạt trên 580 triệu và dân số là hơn 460 triệu người. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các nước ASEAN thậm chí chưa vươn tới mức 100 triệu USD.
_Thực tế, trong những năm qua, ngành dệt may của ta chủ yếu là gia công hàng hóa và xuất khẩu qua nước thứ ba, nên hàm lượng giá trị gia tăng còn thấp, thương hiệu sản phẩm dệt may chưa th
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status