Tiểu luận Một số vấn đề về chính sách xã hội nông thôn nước ta hiện nay - pdf 12

Download Tiểu luận Một số vấn đề về chính sách xã hội nông thôn nước ta hiện nay miễn phí



Thị trường lao động nông thôn còn rất sơ khai, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa hầu như chưa phát triển quan hệ lao động. Giá tiền công trong khu vực nông thôn thường thấp hơn khu vực thành thị 15-20%. Khả năng cạnh tranh của lao động nông thôn rất yếu, lực lượng lao động này di chuyển đến các khu công nghiệp, đô thị, các thành phố lớn tìm việc làm ngày càng tăng, nhưng chỉ tham gia được thị trường lao động có trình độ thấp hay những khu vực phi kết cấu với việc làm không ổn định, thu nhập thấp và có nhiều rủi ro. Cũng vì vậy, nhiều vấn đề xã hội của lao động nhập cư từ nông thôn nổi lên gay gắt như: Vấn đề nhà ở, phúc lợi xã hội, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-33970/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Trường Đại học Nông Lâm Huế
Khoa Khuyến nông & Phát triển nông thôn
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Huế, tháng 01 năm 2011
Trong hệ thống chính sách xã hội chung của cả nước, chính sách xã hội nông thôn có vị trí quan trọng và có đặc trưng riêng về tính chất, mức độ, cơ chế vận hành. Thời gian qua, chính sách này đã và đang đi vào thực tiễn, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở nông thôn nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh đó nó cũng còn không ít những tồn tại, hạn chế, đòi hỏi phải được khẩn trương hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển nông thôn trong tình hình mới.
I/Tác động của chính sách xã hội đối với phát triển nông thôn
1.1Những tác động tích cực
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống người dân nông thôn. Trong những năm qua, dân số và lực lượng lao động nông thôn về mặt tỷ trọng tuy có giảm, nhưng vẫn chiếm số lượng khá lớn trong tổng dân số và lực lượng lao động xã hội và là nguồn nhân lực quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nông thôn. Tính đến năm 2005, dân số nông thôn chiếm 73,25% tổng dân số và 75,06% tổng lực lượng lao động của cả nước. Mặc dù tốc độ tăng trưởng nông nghiệp thấp hơn công nghiệp và dịch vụ, nhưng yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng rất lớn, nhất là khu vực nông thôn.
Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng kinh tế cả nước đạt bình quân 7,5%/năm, trong đó, nông, lâm, ngư đạt 3,66%/năm; đặc biệt, sản lượng lương thực có hạt từ 34,27 triệu tấn (năm 2001) đã tăng lên 39,55 triệu tấn (năm 2005), bình quân mỗi năm tăng 1,32 triệu tấn, là thành tựu rất to lớn, chẳng những đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, mà còn phục vụ tốt cho xuất khẩu (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo).
Yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng nói chung, theo các nhà kinh tế, chiếm khoảng 20%, yếu tố vốn chiếm 57,5% và các yếu tố tổng hợp chiếm khoảng 22,5%. Tuy nhiên, trong nông nghiệp, yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng rất lớn vì đầu tư cho nông nghiệp thấp hơn cho công nghiệp, đặc biệt trong sản xuất lương thực, yếu tố lao động đóng góp khoảng 50%. Tăng trưởng kinh tế góp phần quan trọng nâng cao đời sống người dân nông thôn. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân 1 nhân khẩu/tháng của khu vực nông thôn năm 2001-2002 là 275,13 nghìn đồng, đến năm 2003-2004 tăng lên 378,09 nghìn đồng, tăng 37,42% (cao hơn mức tăng của khu vực thành thị - 31,09%).
Mức chi tiêu cũng tăng từ 232,1 nghìn đồng/tháng năm 2001-2002 lên 314,3 nghìn đồng/tháng năm 2003- 2004, tăng 35,42% (cao hơn mức tăng của thành thị - 31,06%). Một bộ phận người dân nông thôn bước đầu có tích luỹ (nhất là nhóm 4, 5), trên 2 triệu hộ dân nông thôn đạt mức thu nhập 30 triệu đồng/hộ/năm.
Đối với nhóm cùng kiệt nhất, mức thu nhập bình quân 1 khẩu/tháng năm 2003-2004 so với năm 2001-2002 cũng tăng (31,65% ở nhóm 1 và 35% ở nhóm 2 trong 5 nhóm dân cư).
Tạo việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) và hội nhập. Trong 5 năm (2001-2005), chúng ta đã đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, đầu tư toàn xã hội bình quân đạt trên 35,1% GDP (năm 2005 đạt 36,5%), xuất khẩu được mở rộng và nhiều ngành nghề, lĩnh vực mới được mở mang, đã tạo thêm được nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động, từng bước khắc phục tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn, nâng cao hiệu quả và chất lượng việc làm.
Trong 5 năm này, bình quân mỗi năm khu vực nông thôn tạo việc làm mới cho 938.555 người, chiếm 62% tổng số vị trí làm việc mới được tạo ra. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn tăng liên tục từ 74,37% (năm 2001) lên 80,65% (năm 2005), cũng có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn đã từng bước được cải thiện. Cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ lao động nông nghiệp liên tục giảm từ 62,76% năm 2001 xuống 56,8% năm 2005, tương ứng lao động công nghiệp và xây dựng tăng lên 17,9% và dịch vụ 25,3%. Trong nông thôn, lao động làm nông nghiệp cũng đang giảm, đồng thời lao động làm ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ tăng; làng nghề phát triển với tốc độ 11%/năm, hiện có khoảng 2.017 làng nghề với 1,4 triệu hộ, cả nước có khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn thu hút khoảng 10 triệu lao động (kể cả kiêm nghề), chiếm 29% lực lượng lao động nông thôn.
Xoá đói giảm cùng kiệt nhanh hơn, hạn chế tốc độ gia tăng chênh lệch giàu nghèo, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nông thôn. Chính sách xoá đói giảm cùng kiệt ở nước ta được triển khai từ năm 1992 và đến năm 2005 đã đạt được kết quả cao (từ 58,1% hộ cùng kiệt giảm xuống còn dưới 22% - tính theo chuẩn cùng kiệt của WB), được cộng đồng quốc tế đánh giá là nước có tốc độ giảm cùng kiệt nhanh nhất thế giới (so với mục tiêu thiên niên kỷ về xoá đói giảm nghèo, chúng ta đã về đích trước 10 năm). Chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn năm 1993 là 1,96 lần, đến năm 1998 tăng lên 3,66 lần, năm 2002 lại giảm xuống còn 2,26 lần và đến năm 2004 giảm còn 2,16 lần. Đó là một sự chênh lệch tất yếu được người dân chấp nhận, đồng thuận; chưa trở thành vấn đề xã hội bức xúc, gây mất ổn định xã hội.Người dân nông thôn được tiếp cận tốt hơn với hệ thống chính sách an sinh xã hội. Trong hệ thống chính sách an sinh xã hội, ngoại trừ chính sách bảo hiểm xã hội người dân nông thôn đến nay chưa được tham gia, còn lại các chính sách khác liên quan đến bảo trợ xã hội chủ yếu đều đã đến với các đối tượng xã hội ở nông thôn. Với sự quan tâm của Nhà nước, của cộng đồng trong chủ động dự phòng cứu trợ khẩn cấp với phương châm 4 tại chỗ, hàng năm đã cứu trợ đột xuất cho 1-1,5 triệu người ổn định cuộc sống do thiên tai, bão lụt, mất mùa, giảm thiểu thiệt hại về người và của. Số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội ngày một tăng, từ 205.314 người (năm 2001) lên 300.000 (năm 2004) và 360.000 người (2005). Trong 5 năm qua, đã cai nghiện cho 184.277 lượt người, giáo dục chữa trị, phục hồi chức năng cho 25.420 đối tượng mại dâm; dạy nghề cho 10.000 đối tượng và 3.468 đối tượng được tạo việc làm, hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng. Trong tổng số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội, 80% là ở nông thôn. Dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là giáo dục, y tế, nước sạch sinh hoạt đã chú ý hơn đến khu vực nông thôn.Năm 2000, nước ta đã công bố xoá xong nạn mù chữ và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, bắt đầu phổ cập bậc trung học cơ sở. Đặc biệt, con em các hộ gia đình cùng kiệt đã được Nhà nước hỗ trợ để có điều kiện đến rường. Hàng năm, có trên 3 triệu lượt học sinh cùng kiệt và học sinh dân tộc thiểu số được miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường.Người dân nông thôn đã được chăm sóc tốt hơn về sức khoẻ nhờ củng cố và phát triển được mạng lưới y tế rộng khắp trong cả nước,...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status