Tiểu luận Tình yêu trong chiến tranh - pdf 12

Download Tiểu luận Tình yêu trong chiến tranh miễn phí



MỤC LỤC
 
1. LỜI MỞ ĐẦU 1
2. NỘI DUNG 3
2.1. Tình yêu những ngày đầu chiến tranh. 3
2.2. Tình yêu – Sợi chỉ xanh óng ánh giữa bm đạn. 9
2.3. Sự hồi sinh. 15
3. KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-33909/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

nay, trong văn học viết về đề tài chiến tranh – sự hi sinh, mất mát (nếu có nhắc đến) thường là rơi vào những người lính – những người trực tiếp cầm súng ra chiến trường (Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi – Xưa nay chinh chiến mấy ai về ). Song nghịch lý thay, ở cả “Màu tím hoa sim”, “Núi đôi” và “Quê hương” đều nhắc đến sự hy sinh của những người con gái, của người ở hậu phương. Nếu như ở bài thơ “Màu tím hoa sim”, Hữu Loan không nói nguyên do của sự “ra đi” ấy hay người đọc có thể “ngầm hiểu”; thì ngược lại ở Vũ Cao, Giang Nam, hai ông đều nói rất rõ. Với Vũ Cao là nỗi niềm chan chứa: “Giặc giết em rồi dưới gốc thông”, còn Giang Nam cũng bàng hoàng, thảng thốt: “Giặc bắn em rồi, quăng mất xác”. Và ta nghe trong câu thơ, không đơn thuần chỉ là nhắc lại một hiện thực phũ phàng của thời chiến nữa, mà đọng lại là cả một tấm tình, một tiếng lòng chua xót, một tiếng khóc nghẹn ngào… của mỗi nhà thơ trước sự ra đi của người mình yêu – và đau đớn hơn nữa lại ra đi dưới mũi tên, hòn đạn của giặc mà tưởng như ở quê nhà có thể bình yên. Một cách ngẫu nhiên, câu thơ không chỉ làm tê tái thương yêu tâm hồn thi sĩ về một thời kỳ đau thương của dân tộc, hơn thế, còn làm tím cả cõi lòng của những người đang sống hôm nay. Và chính bởi đi sâu vào “mặt trái” của cuộc chiến mà đã có một thời, có thi phẩm đã bị “cấm” không được tuyên truyền rộng rãi đối với bạn đọc và người yêu thơ, hay người ta ngại ngần nhắc đến (cùng với dáng kiều thơm của Quang Dũng). Lớp người say mê và yêu thích những bài thơ kiểu “Màu tím hoa sim” chỉ được lưu giữ và ghi chép chúng trong cuốn sổ tay cá nhân của mình rồi chuyền tay nhau mà ngậm ngùi chua xót. Trường hợp GS.Hoàng Như Mai giảng thi phẩm của Hữu Loan cho sinh viên Đại Học Tổng hợp những năm 1970 thật lắng đọng, âm vang … là rất hiếm. Có hiện tượng đó, âu cũng là một điều dễ hiểu. Bởi lẽ trong khi cả nước đang gồng mình lên để chiến đấu với kẻ thù mạnh hơn… thì tất yếu những bài thơ buồn, uỷ mị như thế sẽ không có lợi cho cuộc chiến tranh cách mạng. Song do cả ba bài thơ đều nói được những điều đúng đắn, chân thành và sâu lắng nhất trong tận đời sống tâm linh con người…, nên sau khi cuộc chiến qua đi, chúng đã được trả lại giá trị đích thực. Cả ba thi phẩm được đánh giá là những bài thơ khá hay vì chúng là tiếng nói thành thực của người nghệ sĩ trước vòng quay của lịch sử, của một thời đã đi qua không bao giờ trở lại. Và người đọc hôm nay chợt hiểu ra rằng: thơ ca kháng chiến đâu chỉ có niềm vui. Bởi bên cạnh cái “hùng” trong phạm trù thẩm mỹ luôn có cái “bi” song song tồn tại. Cái “bi” chính là ở những đau thương, mất mát; ở hiện thực tàn khốc của cuộc chiến tranh không gì bù đắp nổi. Nhưng cái “bi” ấy không phải là cái buồn mơ hồ, luẩn quẩn, bế tắc của các thi nhân trong phong trào thơ mới – mà đó là cái buồn tích cực trong thời kỳ cách mạng. Họ hiểu rõ nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa, chứ không còn “vô cớ” như chàng Xuân Diệu ngày nào (Hôm nay trời nhẹ lên cao/ tui buồn không hiểu vì sao tui buồn). Bởi vậy “nỗi buồn chiến tranh” ở cả ba nhà thơ của chúng ta đều không hề né tránh. Nhưng trong cái buồn chất chứa niềm đau, sự xa xót ấy, vẫn thấy ánh lên niềm tin yêu, hy vọng, sự sống và lòng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Chẳng thế mà trong đoạn kết bài “Núi đôi”, Vũ Cao viết: “Anh đi bộ đội sao trên mũ/Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”. Hay Giang Nam cũng hạ bút: “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm/Có những ngày trốn học bị đòn, roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/Có một phần xương thịt của em tôi”.
Đọc những câu thơ như thế liệu chúng ta còn thấy nó đơn thuần chỉ là đau thương uỷ mị? Hay chính đau thương, uỷ mị lại nâng cao “tầm vóc” con người? Dẫu biết rằng khi đặt bút kết thúc khép lại mỗi bài thơ, mỗi người đọc, người yêu thơ, chưa hẳn đã dứt ra khỏi nỗi buồn, niềm đau, nhưng dường như đằng sau mỗi câu chữ ấy, ta thấy nỗi buồn, niềm đau kia đã chuyển thành tinh thần quyết tâm chiến đấu với kẻ thù, nói theo ngôn từ ngày ấy, là biến đau thương thành hành động cách mạng. Và như vậy, cả ba bài thơ nói đến tình yêu chồng vợ, tình yêu đôi lứa – có vẻ rất riêng tư nhưng đã hoà chung trong tình yêu lớn – yêu quê hương đất nước, của cả một cộng đồng dân tộc. Cá nhân và dân tộc gặp nhau trên chiến trường.
Trước đây có một thời kỳ do cực đoan, phiến diện, chúng ta cho rằng những bài thơ viết về nỗi đau, sự hi sinh, mất mát là bi lụy, làm hạn chế lại dòng vận động của lịch sử hào hùng. Nhưng vượt qua lớp bụi thử thách của thời gian, thực tế đã chỉ ra một điều hết sức ý nghĩa là: chiến tranh nếu không có hi sinh mất mát… thì làm sao người ta thấy hết được giá trị của những tháng ngày sống trong yên ấm, hoà bình ? Thế cho nên, ở một góc độ nào đó, ba bài thơ “Màu tím hoa sim”, “Núi đôi”, “Quê hương” chính là góc nhìn chân thực, không hề né tránh của tấm gương văn học trong việc phản ánh đời sống xã hội. Hiện thực chiến tranh khốc liệt như vậy đó. Và chúng ta phải vô cùng Thank những con người đã hi sinh cả tuổi thanh xuân và tràn đầy ước vọng của mình để có được một đất nước trọn vẹn, thống nhất như ngày hôm nay. Với ý nghĩa như vậy, dù các nhà thơ không nói, nhưng chúng ta thấy như còn vang vọng đâu đây một lời nhắc nhở thầm về sự trân trọng và yêu mến các giá trị của cuộc sống thực tại – của những gì mà ta đã phải đánh đổi trong ngày hôm qua. Một hành trình qua thống khổ mới tới đầu mút bên kia của hạnh phúc…
Quan niệm như thế nào là một bài thơ hay xem chừng đó vẫn còn là một câu hỏi lớn. Song nói gì thì nói thơ hay phải bắt nguồn từ những xúc cảm chân thành về cuộc đời và về số phận con người. Và đến với thơ ca, cũng nên tiếp nhận nó “bằng tình yêu thương con người chứ không phải vì chính trị hay vụ lợi riêng” (Hữu Loan – tâm sự ngày 05/03/1995 tại Nga Sơn, Thanh Hóa).
Phải chăng vì thế mà khi cuộc chiến tranh đã lùi xa cách đây hơn ba mươi năm, nhưng cho đến tận bây giờ cả ba bài thơ “Màu tím hoa sim”, “Núi đôi”, “Quê hương”… vẫn là những bài thơ hay hấp dẫn và có sức lay động sâu xa trong lòng người đọc.
2.2. Tình yêu – Sợi chỉ xanh óng ánh giữa bm đạn.
Vâng! Có một thời như thế, một thời tình yêu đôi lứa được coi là thứ tình cảm ủy mị, sướt mướt, mọi người không công nhận những tác phẩm chất chứ một tình yêu cao đẹp ấy, bởi một điều: nó làm giảm sút tinh thần người lính, khiến họ có thể gục ngã trên chiến trường ngày một ác liệt hơn.
Thế nhưng ai đã từng dù chỉ một lần đọc “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu thì sẽ suy nghĩ khác.. bởi tình yêu và cuộc kiếm tìm tình yêu của hai nhân vật chính trong tác phẩm đã làm thay đổi ý nghĩ cũ đó.
“Mảnh trăng cuối rừng” là một trong những tác phẩm in trong tập “những vùng trời khác nhau...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status