Tiểu luận Luận chứng vai trò của tri thức - pdf 13

Download Tiểu luận Luận chứng vai trò của tri thức miễn phí



MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
1. Khái niệm và cấu trúc của tri thức. 1
a) Khái niệm về tri thức 1
b) Cấu trúc của tri thức 2
2. Vai trò của tri thức trong hoạt động xã hội. Xã hội tri thức 4
a) Vai trò của tri thức trong hoạt động xã hội. 4
b) Xã hội tri thức 5
3. Vai trò của tri thức trong hoạt động kinh tế 6
4. Vai trò của tri thức đối với con người. Quản trị tri thức 9
a) Vai trò của tri thức đối với con người và sự hình thành trí thức. 9
b) Quản trị tri thức 10
KẾT LUẬN 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34503/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

rất lâu đời. Ở thời đại nào cũng thế và ở đâu cũng vậy, tri thức trở thành một “tài nguyên” không thể thiếu của con người, như Franxi Bêcon đã khẳng định: “Tri thức là sức mạnh”. Trong xã hội hiện đại, thuật ngữ “tri thức” lại càng được nhắc đến nhiều hơn. Chúng ta có nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức, giáo dục tri thức rồi quản trị tri thức, công nghệ tri thức… Có thể nói rằng, hàng loạt lĩnh vực đã được tri thức hoá. Tri thức là công cụ, là điều kiện tiên quyết cho một xã hội văn minh, tiên tiến của loài người.
Trong bối cảnh hiện tại, sự bùng nổ của công nghệ và khoa học mang lại một nguồn thông tin khổng lồ,đòi hỏi chúng ta phải biết chọn lọc, xử lý để biến nó thành tri thức cho riêng mình. Nhận thấy rõ sự cần thiết này, em đã lựa chọn đề tài “Luận chứng vai trò của tri thức”. Bài viết sử dụng các tư liệu có sẵn dựa trên hiểu biết của bản thân, vì thế còn nhiều sai sót. Rát mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy, cô và các bạn trong lớp.
Em xin chân thành cảm ơn.
Khái niệm và cấu trúc của tri thức.
Khái niệm về tri thức
Tri thức được hình thành nên từ những nhận thức, tư duy của con người về thế giớ khách quan, về thực tiễn của cuộc sống. Tuy khái niệm tri thức đã có từ lâu trong lịch sử loài người nhưng những nghiên cứu mang tính khoa học – tríêt học về tri thức chỉ thực sự bắt đầu từ phát biểu Platon – một triết gia Hy Lạp cổ đại sống vào khoảng 427-347 TCN. Theo ông, tri thức là cái có trước các sự vật cảm biết mà không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận biết các sự vật đó. Trên cơ sở lí luận nhận thức này, Platon phân loại tri thức thành tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy và tri thức mờ nhạt. Tuy nhận thức của ông còn hạn chế và khuynh hướng duy tâm xong nó cũng đã khẳng định được sự tồn tại và vai trò của tri thức.
Những triết gia sau Platon đã tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu về khái niệm và bản chất của tri thức. Những người có quan điểm tiến bộ hơn như Immanuel Kant đã trình bày quan điểm của ông về tri thức một cách chính xác hơn. Lịch sử hình thành khái niệm “tri thức” đã trải qua một quá trình lâu dài nhưng đến nay vẫn còn là một đề tài đang được nghiên cứu và gây nhiều tranh luận. Xét trên phương tiện ngôn ngữ học, tri thức là một khái niệm rõ ràng, dễ hiểu: “Tri thức là những gì bạn đã đọc”. Còn xét trên phương diện triết học, tri thức mang nghĩa phổ quát hơn, dùng dể diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng. Ta có thể định nghĩa:
“Tri thức là kết quả của các quá trình nhận thức của con người về đối tượng dược nhận thức, làm tái hiện tư tưởng con người, những thuộc tính, những mối quan hệ, những quy luật vận động, phát triển của đối tượng và được diễn đạt bằng ngôn ngữ tự nhiên hay hệ thống kí hiệu khác.”
Như vậy, tri thức bao gồm tất cả những thông tin,số liệu, khả năng, sức sáng tạo,kĩ năng, quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tương tự xã hội khác. Tri thức đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người.
Cấu trúc của tri thức
Tri thức là lĩnh vực rất rộng, có thể xem xét ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau. Tri thức là một tập hợp các kĩ năng và năng lực vì thế mỗi loại tri thức khác nhau lại có cách thức hình thành và những đặc trưng khác nhau. Xét về cấp độ phức tạp của thông tin,cấu trúc của tri thức bao gồm:
– Tri thức đời thường: được hình thành do hoạt động hàng ngày của các cá nhân và mang tính chất cảm tính, trực tiếp,bề ngoài và rời rạc. Nêu đây là những tri thức đúng đắn, nó mang tính phổ biến và được xem gần giông như “thông tin”. Loại tri thức này trả lời cho câu hỏi “biết – cái gì?” (Know – What?). Những ví dụ cụ thể về dạng tri thức này như: Dân số Việt Nam tính đến năm 2007 la bao nhiêu?, Ai là người đầu tiên lên mặt trăng?, hay Là sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân thì phải tuân theo nội quy, quy chế gì?... Những tri thức đời thường này dựa trên lẽ phải và ỹ thức thông thường,là cơ sở định hướng quan trọng cho các hành vi hàng ngày của con người.
– Tri thức khoa học : Khi những tri thức đời thường rời rạc được liên kết nhau và có sự tư duy, tổng hợp của con người thi tri thức phát triển ở mức độ cao hơn,trở thành tri thức khoa học. Tri thức khoa học trình bày nguyên lí và các quy luật vận động trong tự nhiên,trong xã hội và trong tư duy của con người. Nó bao gồm tri thức kinh nghiệm – thể hiện trình độ thấp và tri thức lí luận – thể hiện trình độ cao của tri thức khoa học. Giữa hai trình độ tri thức này có mối liên hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển và từ đấy phản ánh một cách ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về thế giớ vật chất ddang vận động không ngừng.
- Tri thức kinh nghiệm: chủ yếu thu nhận qua quan sát và thí nghiệm. Từ những hiểu biết được tích lũy trong cuộc sống hàng ngày, con người so sanhd, đối chiếu, xem xét các sự vật và hiên tượng,từ đấy nhận thức và cải tạo thực tiễn, hình thành nên tri thức kinh nghiệm. Đây là những hình dung thực tế về sự vật, hiện tượng, biết cách ứng xử trong các hiên tượng tự nhiên và trong các quan hệ xã hội. Theo thời gian và bằng kinh nghiệm sống, số lượng và chất lượng tri thức kinh nghiệm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, chứa đựng những mặt đúng đắn nhưng còn riêng biệt, chưa thể đi sâu vào bản chất. Nó mới chỉ là một hình thức,một trình độ của nhận thức nên chưa nắm được một cách đầy đủ, toàn diện cái tất yếu, cái bản chất bên trong của sự vật hịên tượng. Như Ph.Ănghen trong cuốn biện chứng của tự nhiên đã nhận xét: “Sự quan sát theo kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” ( C.Mác và Ph.Ănghen, 1978-1995, tập 20, trang 718)
- Tri thức lí luận : Để nắm bắt được bản chất sâu xa của sự vật, hiên tượng thì nhận thức của con người tất yếu phải chuyển lên trình độ tri thức lí luận. Nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, giả thuyết, lý thuyết, học thuyết khoa học. Lí luận hình thành từ kinh nghiệm nhưng nó không xuất hiện một cách trực tiếp, tụ phát và không phải mọi lí luận đều xuất phat từ kinh nghiệm “Lí luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội, được tích lũy lại trong quá trình lịch sử” (Hồ Chí Minh, 1995-1996, tập 8, trang 497).
– Tri thức công nghệ: Khi đã có một vốn tri thức khoa học đầy đủ, tư duy con người phat triển cao hơn thì hinh thành tri thức công nghệ. Dạng tri thức này quan tâm đến các kĩ năng hay khả năng làm việc và cách xử lí tình huống một cách lin hoạt, nạy bén, trả lời cho câu hỏi “Biết – Như thế nào?” (Know – how?). Đây cũng có thể coi la “bí quyết” của từng người cụ thể. Nó đem đến một nhà lãnh đạo tài ba với những chiến lược sắc bén, một công ty phát triển với những bí quyết riêng hay một nhà khoa học với những phá...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status