Tiểu luận Lịch sử phép biện chứng - pdf 13

Download Tiểu luận Lịch sử phép biện chứng miễn phí



Học thuyết của Hêghen là thành tựu cao nhất về phép biện chứng của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX. Học thuyết này có đặc điểm khác biệt là nội dung rộng lớn và sâu sắc đặc biệt,sự đa dạng của các vấn đề do nó đặt ra rất quan trọng Lần đầu tiên trong lịch sử biện chứng,Hêghen đã phát hiện ra các quy luật biện chứng cơ bản mà ở Phíctơ và Senling chỉ mới thể hiện dưới dạng không rõ ràng hay chưa được đề cập tới. Sự hợp nhất một cách hữu cơ yếu tố bản thể luận và yếu tố nhận thức trong phép biện chứng Hêghen đã được tiến hành một cách đầy đủ hơn so với ở Phíctơ và Senling. Chẳng hạn các phạm trù ở hêghen trở thành các hình thức phổ biến không những trong nhận thức mà còn cuả cả bản thân thế giới khách quan. Bên cạnh các yếu tố tích cực trong việc thống nhất giữa các quy luật của tồn tại và nhận thức về nó, còn có các yếu tố tiêu cực đó là đưa nhưng quy luật của tồn tại một cách duy tâm vào tồn tại tư duy.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34818/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ng im, đó là một mâu thuẫn mà con người cần chấp nhận.
Phép biện chứng của triết học cổ đại Ấn Độ còn nhiều hạn chế như coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay là có quan niệm về biện chứng chưa triệt để (thể hiện ở những phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina).
1.2)Phép biện chứng Trung Hoa cổ đại
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có lịch sử lâu đời.Những biểu hiện tôn giáo, triết học cũng như tư tưởng biện chứng đã xuất hiện rất sớm ở xã hội Trung Hoa cổ đại. Và đặc biệt là từ thời kì Xuân thu-chiến quốc trở đi . Xã hội Trung Hoa thời bấy giờ là xã hội rất lộn xộn, sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã làm xuất hiện nhiều thế lực chính trị, làm cho hệ thống thiết chế xã hội-xã hội chủ nô dần tan rã và đang dần hình thành xã hội phong kiến với những quan hệ hết sức phức tạp. Do vậy đã làm xuất hiện hàng loạt các tư tưởng triết học khác nhau mà hầu hết đều có ý hướng muốn giải quyết vấn đề thực tiễn chính tri-xã hội, trong đó tiêu biểu là những hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau này trong lịch sử phong kiến Trung Quốc như đạo Nho, đạo Lão
Phép biện chứng biến dịch là một nét đặc sắc của triết học Trung Hoa. Tiêu biểu là những tư tưởng biến dịch của Nho gia( Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử ). Triết lý âm dương đi sâu vào sự suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn hữu. Theo thuyết âm dương thì mọi sự biến hoá vô cùng, vô tận, thường xuyên của vạn hữu ( kể cả hiện tượng tự nhiên, xã hội và cả ý thức) đều có thể quy về nguyên nhân của sự tương tác giữa hai thế lực đối lập vốn có của “âm” và “dương”. Các nhà biện chứng thuộc phái này cho rằng trời đất vạn vật luôn luôn biến đổi không ngừng và có tính quy luật (tính thống nhất của các mặt đối lập và sự biến đổi từ mặt đối lập này sang mặt đối lập khác). Nguyên nhân của mọi biến hoá là do sự giao cảm của hai mặt đối lập như âm dương, nước và lửa, đất và trời… Chính trị-xã hội cũng theo đó mà biến đổi theo quy luật tự nhiên đó. Tuy nhiên hạn chế của phép biện chứng này là ở chỗ coi sự biến hoá chỉ có tính chất tuần hoàn theo chu kỳ khép kín, không có sự phát triển, không có sự xuất hiện cái mới.
Đạo Lão ( Lão Tử, Dương Chu, Trang Chu ) với tư tưởng coi đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ, hiện tượng đã thể hiện những tư tưởng biện chứng. Tư tưởng đó là mọi hiện hữu đều biến dịch. Sự biến dịch này theo hai nguyên tắc cơ bản: quân bình và phản phục. ”Cái gì cũ sẽ mới”,”cái gì khuyết ắt tròn đầy”...Tư tưởng phản phục nói lên nguyên lý vận hành giản đơn mà không có phát triển của hiện hữu. Hay là tư tưởng các mặt đối lập trong một thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này có cái kia: “Đẹp tức có xấu, dài ngắn tựa vào nhau. Cao thấp liên hệ với nhau,...” . Điều hạn chế của tư tưởng này là ở chỗ do các nhà biện chứng nhấn mạnh nguyên tắc quân bình và phản phục trong biến dịch, cho nên họ không đề cao tư tưởng đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn mà nhấn mạnh điều hoà của các mặt đối lập.
Hạn chế chung của tư tưởng biện chứng Trung Hoa cổ đại đó là không chú ý đến quá trình phát triển, không coi trọng cái mới.
Qua một số các học thuyết triết học Ấn Độ và Trung Hoa cổ đại, ta có thể thấy nguyên tắc về sự thăng bằng của sự biến động đã được đặc biệt quan tâm. Trong khi đó những nguyên lý và nguyên tắc về sự biến động phát triển về cơ bản chưa được đề cập đến.
1.3)Triết học Hy Lạp cổ đại:
Quá trình tan rã của chế độ bộ lạc nguyên thuỷ, quá trình hình thành xã hội có giai cấp kéo dài tới vài thế kỷ (từ thế kỷ XI-VIII tr.CN) đã dẫn tới vai trò sở hữu tư nhân trước hết là sở hữu của giới quý tộc nông nghiệp và quý tộc dòng dõi ngày càng phát triển. Vì vậy, cho nên mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt như đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ, giữa phe dân chủ-chủ nô tiến bộ và phe quý tộc-chủ nô bảo thủ. Thêm vào đó, là sự phát triển của nghề thủ công, nông nghiệp, thương mại (do có thuận lợi về đường biển) đã làm nền tảng cho sự phát triển tri thức về thiên văn, toán học, vật lý học...Những khoa học này ra đời đòi hỏi sự khái quát cao của triết học, thế nhưng ở thời kỳ này tri thức triết học và tri thức về khoa học cụ thể thường hoà lẫn vào nhau. Ngoài ra thời kỳ này cũng diễn ra sự giao lưu giữa Hi Lạp với các nước A Rập phương Đông nên triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và các tư tưởng biện chứng nói riêng cũng có ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của nền triết học phương Đông
Một trong những trang sáng chói nhất trong sự phát triển của tư tưởng biện chứng thế giới, với giai đoạn đầu của nó là phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Những quan niệm biện chứng đã chiếm một phần đáng kể trong thế giới quan của người Hy Lạp cổ đại. Về thực chất, quan niệm đó đã xuất hiện cùng với triết học. V.I.Lênin coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử lịch sử phép biện chứng. Hay nói cách khác phép biện chứng mácxít, khoa học, hiện đại bắt nguồn từ biện chứng Hy Lạp thời cổ đại với tư cách là khởi nguyên của mình.
Tư tưởng biện chứng nhận thức của thời kỳ này thông qua suy luận của Hêraclit là sự tương tác giữa cảm tính và tư duy, thông qua phỏng đoán sáng suốt của Đêmôcrit về tính chế định lẫn nhau giữa “nhận thức mờ ám” và “nhận thức trong sáng”.
Trước tiên là Hêraclit- nhà duy vật có nhiều yếu tố biện chứng- người giữ vị trí trung tâm trong lịch sử phép biện chứng cổ đại. Lê-nin coi ông là “một trong những người sáng lập ra phép biện chứng”. Điều cơ bản và đặc thù trong học thuyết của Hêraclit là tư tưởng về sự thống nhất biện chứng của sự hài hoà và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ông có những phỏng đoán thiên tài về các mặt đối lập và về quy luật mâu thuẫn. Theo Hêraclit sự thống nhất có nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự hài hoà giữa các mặt đối lập.Ông phê phán những nhà triết học không nhận thấy mọi sự đối lập tạo ra một chỉnh thể thống nhất, rằng các mặt đối lập không thể có được nếu thiếu nhau, chẳng hạn ta không thể quý sức khỏe nếu không biết mặt đối lập của nó là bệnh tật. Việc nhận thức thuộc tính, bản chất sự vật phải thông qua các mặt đối lập của nó. Các mặt đối lập luôn chuyển hoá lẫn nhau và sự chuyển hoá đó phải thông qua đấu tranh. (phù hợp với mối liên hệ phổ biến). Về nhận thức luận, ông đứng trên lập trường duy vật và biện chứng. Ông cho rằng vũ trụ tồn tại theo những quy luật nội tại của nó. Nhận thức là nhận thức cái tất yếu, cái thống nhất bao gồm các mặt đối lập là nhận thức cái quy luật nội tại của vũ trụ. Con đường nhận thức bắt đầu từ cảm tính sau đó qua lý tính. Theo ông, chân lý mang tính cụ thể v
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status