Việt Nam trong quá trình hội nhập - pdf 13

Download Đề tài Việt Nam trong quá trình hội nhập miễn phí



Kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 22/10/1990), quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng được củng cố và phát triển. Một loạt những Hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại đã được ký kết, trong đó có Hiệp định khung về hợp tác Việt Nam - EU được ký kết ngày 17/7/1995 đã tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi để phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU. Ngoài ra, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam - EU được tăng cường đẩy mạnh với việc EU công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường và tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện thông qua cơ chế hợp tác trong ASEM đã có những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU. Trong những năm gần đây, kim ngạch buôn bán với EU chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Khối lượng buôn bán của Việt Nam với EU từ năm 1991 đến nay đã tăng với tốc độ trung bình là 40%/năm; và từ năm 1997, Việt Nam luôn đạt thặng dư thương mại trong buôn bán với EU với tỷ lệ trung bình 91%/năm. Năm 2002, xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực thị trường EU đạt 2,48 tỷ USD và nhập khẩu đạt 1,43 tỷ USD (tương ứng tăng 4,9% và 12,7% so với năm 2001); kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU chiếm khoảng 13% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. 13 trong số 15 nước EU hiện nay đã có quan hệ buôn bán với Việt Nam, trong đó Pháp, Đức, Anh và Hà Lan nằm trong danh sách những bạn hàng lớn nhất, chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34600/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ tổng hợp và hoàn thiện Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế; Bộ Nội vụ chủ trì cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp… với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực; Bộ Ngoại giao với nhiệm vụ kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại; Bộ Quốc phòng, Bộ Công an với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng; Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính với nhiệm vụ về đàm phán gia nhập WTO; Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ mở rộng thị trường xuất khẩu, tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế. Và cuối cùng là công tác kiện toàn tổ chức của các bộ, cơ quan của Chính phủ.
1.2. Những thành tựu ban đầu trong quá trình thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế theo quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Với đường lối, chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn được thể hiện rõ ràng trong các Nghị quyết của Đảng, sau gần 17 năm thực hiện, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã có những bước biến đổi sâu sắc. Việt Nam đã từng bước thu được những kết quả quan trọng bước đầu về ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng quan hệ thương mại với gần 200 nước, là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, ký hiệp định kinh tế - thương mại, tranh thủ đầu tư trực tiếp của các tập đoàn và các công ty thuộc 77 nước và vùng lãnh thổ, trong đó đáng chú ý là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ đã được ký kết ngày 13/7/2000; tranh thủ được viện trợ phát triển của hơn 45 nước và định chế tài chính quốc tế; tích cực tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, đưa hội nhập quốc tế lên một tầm cao mới với những mốc đánh dấu quan trọng.
* Năm 1993, Việt Nam đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB đưa hoạt động hợp tác với các định chế này dần đi vào chiều sâu. IMF, WB đã hỗ trợ cho Việt Nam thông qua chương trình tín dụng trung hạn, chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và Chương trình điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật thiết với những yêu cầu của WTO. Đối với Chương trình SAC và ESAF lần thứ hai cho thời kỳ 1999-2002, sau các đợt đàm phán hai bên đã đạt được nhiều thoả thuận cơ bản, những vấn đề còn lại đang được tiếp tục đàm phán trong thời gian tới.
ÔÛ Việt Nam hiện nay có khoảng 25 nhà tài trợ song phương, 19 tổ chức tài trợ đa phương và hơn 300 tổ chức phi chính phủ (NGO) đang hoạt động. Trong giai đoạn 1991 - 2000, nguồn vốn ODA vào Việt Nam tăng trưởng liên tục và bổ sung một lượng vốn không nhỏ cho nền kinh tế nước ta. Hội nghị Tokyo tháng 12/1997, các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam 2,4 tỷ USD, trong đó khoảng 25% là viện trợ không hoàn lại, đưa tổng số cam kết từ năm 1993 đến 1997 lên 10,847 tỷ USD. Nếu tính giá trị ODA theo đồng tiền cam kết của từng nước tài trợ thì kết quả thu hút ODA ở Hội nghị Tokyo tăng 18%, thể hiện sự tín nhiệm của cồng đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước ta. Đến năm 1998, tại Hội nghị Paris, các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt naêm 2,2 tỷ USD viện trợ tài chính, ngoài ra còn cam kết dành thêm 500 triệu USD để ủng hộ việc thực hiện chương trình cải cách, đưa tổng số cam kết lên 2,7 tỷ USD. Bước sang năm đầu tiên của thế kỷ XXI, trước những biến động lớn của thế giới, các nền kinh tế lớn của thế giới bị suy thoái nặng nề, nhưng tại Hội nghị CG 2001 tháng 12/2001, các nhà tài trợ vẫn tích cực hỗ trợ quá trình phát triển và các chính sách cải cách của Việt Nam với số tiền 2,356 tỷ USD viện trợ ODA, tương đương với mức tài trợ của năm 2000. Chỉ tính trong giai đoạn 1993 - 2001, qua 9 hội nghị, tổng số vốn ODA đã cam kết của các nhà tài trợ đã đạt 21.096 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Chính phủ, tổng giá trị các chương trình và dự án vốn ODA đã ký từ năm 1993 hiện đã vượt quá 14 tỷ USD. Tính đến ngày 15/5/2003, tổng giá trị các hiệp định ODA được ký kết đạt 1.010,74 triệu USD, trong đó vốn vay là 905,64 triệu USD và viện trợ không hoàn lại là 105,10 triệu USD.
Như vậy, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đứng đầu về thu hút được nguồn vốn ODA từ các nước phát triển như Nhật, Pháp, Đức, Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển. Trong đó, các nhà tài trợ của EU luôn luôn là những nhà tài trợ lớn, đứng thứ 3 trong nhóm dẫn đầu các nhà tài trợ đa phương, sau WB và ADB. Tháng 1/2002, Ban Giám đốc điều hành ADB đã phê duyệt Chương trình và chiến lược quốc gia cho Việt Nam, dự kiến trợ giúp khoảng 945 triệu USD trong ba năm tiếp theo. ADB sẽ ưu tiên trợ giúp các cải cách trong lĩnh vực tài chính và nông nghiệp; phổ cập giáo dục trung học cơ sở và cải thiện y tế; cải cách hành chính công và tăng cường quản trị; phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cung cấp năng lượng với giá cạnh tranh; và tiếp tục các dự án trợ giúp khu vực miền Trung, nới có nhiều người cùng kiệt sinh sống. Năm 2002, ADB tài trợ cho Việt Nam với tổng số vốn hơn 240 triệu USD, năm 2003 dự kiến khoảng 280 triệu USD. Hai bên cũng cam kết tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong những nỗ lực nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục chính sách để thúc đẩy việc thực hiện các dự án; trợ giúp Việt Nam trong các dự án ở cấp tiểu khu vực, đặc biệt là Chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GSM).
* Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Việt Nam đã tham gia đầy đủ các hoạt động của ASEAN và có những đóng góp bằng nhiều sáng kiến trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, các các hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức đối thoại của ASEAN, trong đó có Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), đối thoại ASEAN - EU. Gần 8 năm qua kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN, Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào công việc của Hiệp hội như: chủ trì nhiều hội nghị và hội thảo cấp cao trong ASEAN và giữa ASEAN với các bên đối thoại, tham gia xây dựng nhiều văn bản quan trọng về chiến lược phát triển và các chương trình hành động của ASEAN, tiêu biểu như: Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân; Tuyên bố Hà Nội; Chương trình hành động Hà Nội; Tầm nhìn ASEAN 2020; góp phần tích cực và là động lực chính của ASEAN tại ARF. Việt Nam đã góp phần làm cho ASEAN có một diện mạo mới, làm cho ASEAN trở thành một khu vực hữu nghị, hợp tác, ngày càng có vai trò và ảnh hưởng to lớn trên trường quốc tế. Quan điểm và những sáng kiến của Việt nam về nhiều vấn đề khu vực thường được hưởng ứng và sự nhất trí cao trong ASEAN.
Hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam với ASEAN đã ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status