Tiểu luận Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - pdf 13

Download Tiểu luận Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước miễn phí



MỤC LỤC
 
MỤC LỤC 1
A- ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B- NỘI DUNG TIỂU LUẬN 3
I/ Lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin về con người 3
1. Quan điểm triết học về con người trong lịch sử 3
2. Quan điểm về con người trong triết học Marx - Lenin 5
II/ Vấn đề nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 8
1. Lý thuyết về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 8
2. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay 10
3. Mục tiêu và phương hướng phát triển nguồn nhân lực nước ta 12
III/ Ý KIẾN BẢN THÂN 13
C- KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-35630/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Democrite về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo đường lối Epicurus... Những quan điểm duy vật như vậy đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỉ XVIII; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Feuerbach. Ông phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học của Hegel. Feuerbach quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiện, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh. Ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Feuerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Marx.
Bên cạnh đó giác độ tiếp cận giả quyết các vấn đề triết học về con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ các giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến những kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính “tự nhiên” của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu hình học) đối với vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Nhìn chung, các quan điểm triết họ trước Marx và ngoài Marxism có một hạn chế cơ bản là phiếm diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu tượng của chủ nghĩa duy tâm, còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ còn hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của Marx - Lenin về con người.
2. Quan điểm về con người trong triết học Marx - Lenin
Triết học Marx đã thừa kế và khắc phục những mặt hạn chế của quan điểm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời phát triển những quan điểm đó để đi tới quan điểm về con người hiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên. Hay nói một cách khác chủ nghĩa Marx xem xét con người như một thực thể sinh học - xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản chất tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình sinh lý trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên con người không phải là một động vật thuần tuý như các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với nội dung văn hoá lịch sử của nó. Với phương pháp biện chứng duy vật triết học Marx nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cái vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Con người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã hội nên con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cở thể với môi trường, quy luật về trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoà chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status