Tiểu luận Lịch sử hình thành, quá trình phát triển và vai trò của chủ nghĩa duy vật biện chứng - pdf 13

Download Tiểu luận Lịch sử hình thành, quá trình phát triển và vai trò của chủ nghĩa duy vật biện chứng miễn phí



Giai cấp vô sản là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại; nó có lợi ích, có mục đích phù hợp với lợi ích cơ bản, mục đích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã được giai cấp vô sản tiếp nhận như một công cụ định hướng cho hành động, như vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại. Công cụ định hướng này, vũ khí lý luận này đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định: giống như chủ nghĩa duy vật biện chứng thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí tinh thần của mình nên ngay từ đầu, khuynh hướng mới, coi lịch sử phát triển của lao động là chìa khoá để hiểu toàn bộ lịch sử của xã hội, đã chủ yếu hướng về giai cấp vô sản và đã được giai cấp vô sản dành cho một sự hưởng ứng mà nó không tìm thấy và không mong chờ có được ở một nơi nào khác.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-35558/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

đầu tiên của mọi tồn tại là nước (Ta-lét), không khí (A-na-xi-men). Còn Hê-ra-clít lại coi lửa là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại. Lơ-xíp và Đê-mô-crit, những nhà nguyên tử luận cổ đại, đều thừa nhận có hai cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại đó là nguyên tử và trống rỗng. Các ông cho rằng: sự đa dạng của thế giới phụ thuộc vào sự liên hợp khác nhau của các nguyên tử - các hạt vật chất nhỏ bé nhất không thể phân chia được nữa.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất giải quyết vấn đề giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào.
Tuỳ theo cách giải quyết vấn đề này mà các học thuyết triết học chia ra làm hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và quyết định ý thức. Ý thức phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật đã được hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản và chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG.
1. Quá trình phát triển
a. Triết học duy vật cổ đại (Duy vật chất phác – ngây thơ)
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên với những thành tựu rực rỡ như ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hy lạp - La Mã. Về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Vì, quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật, vật chất là vật thể cụ thể hay thuộc tính của vật thể cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác nhưng nó phụ thuộc vào vật chất.
Anghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số dạng vật chất cụ thể hay thuộc tính của nó. Những kết luận của chủ nghĩa duy vật cổ đại còn mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế.
b. Chủ nghĩa duy vật phục hương và cận đại (Duy vật siêu hình)
Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết học tự nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy vật, nhưng về phương pháp luận lại ảnh hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên (phương pháp thực nghiệm) của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình xuất hiện từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII. Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học còn là một bộ phận trực tiếp của triết học. Đến thời kỳ này nảy sinh nhu cầu các ngành hoa học cụ thể tách ra khỏi triết học trở thành các ngành khoa học cụ thể, độc lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết nhằm phát hiện các thuộc tính, những qui luật của vật chất như chức năng, tác dụng, độ bền vật liệu… Từ đó làm xuất hiện phương pháp mới trong khoa học tự nhiên – phương pháp thực nghiệm và cũng trên cơ sở đó xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình trong triết học duy vật. Phương pháp siêu hình xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi.
Triết học duy vật thời kỳ này thay mặt cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Pháp với những quan điểm của Metri (La Mettrie), Điđơrô (Diderot Denis), Hônbách (Holbach Paul Henri), chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác – Anghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII, đồng thời phát triển CNDV lên một tầm cao mới, nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học.Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực đó.
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của phương pháp luận.
Triết học Mác – Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu con người. Cho nên triết học Mác – Lênin còn được gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nghiên cứu triết học Mác – Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa bước ngoặt cách mạng do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bổ sung phát triển thêm.
Triết học Mác – Lênin không chỉ giải thích về thế...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status