Tiểu luận Đổi mới kiểm tra đánh giá, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn trong nhà trường THPT - pdf 13

Download Tiểu luận Đổi mới kiểm tra đánh giá, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn trong nhà trường THPT miễn phí



So với các môn khác, Ngữ văn là môn học có nhiều nét đặc thù. Việc cải tiến, đổi mới trong đề thi, kiểm tra sẽ có tác động đáng kể tới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh. Thời gian qua, dạng đề “mở” đã xuất hiện ngày càng nhiều trong các tiết kiểm tra môn Ngữ văn ở các cấp học, nhất là bậc THCS và THPT. Đặc biệt, đề thi “mở” đã “góp mặt” trong những kỳ thi quan trọng như: Thi tuyển vào lớp 10, Thi tốt nghiệp THPT, Thi tuyển sinh và ĐH, CĐ.
Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2010 vừa qua, câu 2 -phần chung cho tất cả thí sinh
( NL xã hội) được ra theo hướng “mở”:
Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về
lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay.
hay ở kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học khối C năm 2010, hầu hết các câu ở cả hai phần: phần chung và phần riêng của đề thi đều thuộc dạng đề “mở”:
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-36570/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO PHÚ YÊN
TRƯỜNG : THPT PHAN ĐÌNH PHÙNG
TỔ : VĂN
ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ, THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh (HS), nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên (GV) và nhà trường, cho bản thân HS, để HS học tập ngày một tiến bộ hơn. Nói cách khác, đánh giá là một khâu, một công cụ quan trọng trong quá trình giáo dục; có chức năng, khả năng điều chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học (PPDH). Và kiểm tra là phương tiện và hình thức quan trọng, quyết định kết quả đánh giá.
Trước nhu cầu bức thiết phải đổi mới PPDH như hiện nay, việc kiểm tra đánh giá (KTĐG) phải chuyển biến mạnh theo hướng: phát triển tính tích cực, trí thông minh sáng tạo của HS; khuyến khích HS vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế, bộc lộ những cảm xúc và thái độ của bản thân trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Nói chung là việc KTĐG phải thoát khỏi quỹ đạo dạy và học thụ động để đi vào quỹ đạo dạy và học tích cực, chủ động, sáng tạo.
Môn Ngữ văn với mục tiêu đặc thù là phải rèn luyện cho HS biết cách tư duy hình tượng nghệ thuật, thành thạo kĩ năng đọc – hiểu, cảm thụ tác phẩm văn chương trong hệ thống tích hợp ngang và tích hợp dọc, nên cũng rất cần có sự đổi mới trong KTĐG. Nhưng, việc đổi mới KTĐG như thế nào để dạy và học môn Ngữ văn tích cực hơn, có hiệu quả cao hơn và gợi được sự hứng thú học tập đối với HS thì không phải là vấn đề đơn giản, không thể thực hiện một cách máy móc, rập khuôn, mà đòi hỏi chúng ta phải có quá trình chuẩn bị kiến thức cho HS một cách chu đáo, lựa chọn phương tiện, cách thức kiểm tra sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình học tập của HS ở từng địa phương, từng trường, từng lớp. Tất cả nhằm đảm bảo được yêu cầu chung là: “đổi mới mạnh mẽ cách thức kiểm tra, thi với yêu cầu HS phải học thuộc lòng nhiều sự kiện, các bài văn mẫu; tăng cường các câu hỏi đòi hỏi HS suy nghĩ, trả lời theo cách hiểu và vận dụng của riêng mình”.
Trong hơn năm năm qua, tổ Văn trường THPT Phan Đình Phùng ( Phú Yên) đã được hướng dẫn và thực hiện đổi mới cách thức, nội dung KTĐG, để thúc đẩy đổi mới PPDH môn Ngữ văn. Nhìn chung chúng tui đã đạt được một số kết quả nhất định.Quá trình thực hiện xin được trình bày cụ thể ở phần NỘI DUNG.
II. PHẦN NỘI DUNG:
Theo quan điểm: KTĐG là một quá trình, theo một quá trình, đánh giá từng nội dung, từng bài học, từng hoạt động giáo dục,...và đánh giá toàn diện theo mục tiêu giáo dục, tổ Văn trường THPT Phan Đình Phùng thực hiện đổi mới KTĐG một cách cụ thể như sau:
1. Thời điểm kiểm tra:
KTĐG không chỉ ở thời điểm cuối cùng ( cuối học kì, cuối năm), mà thực hiện trong cả quá trình học tập bộ môn. Cụ thể là sau khi học xong một tác phẩm, một số tác phẩm hay một giai đoạn văn học thì thực hiện KTĐG ngay; lần kiểm tra sau luôn có yêu cầu cao hơn, nội dung mới hơn so với lần kiểm tra trước.
Ví dụ: Dạy các thi phẩm Thơ mới Việt Nam (1932 -1945) ở chương trình lớp 11
( Vội vàng ( Xuân Diệu), Tràng giang( Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ ( Hàn Mặc Tử),...), chúng tui KTĐG thường xuyên sau khi dạy xong từng bài bằng hình thức vấn đáp
( KT miệng) với các dạng câu hỏi tái hiện kiến thức, ví dụ như:
- Đọc thuộc khổ đầu trong bài thơ “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận, phân tích
ngắn gọn nội dung, ý nghĩa của khổ thơ đó.
Và sau khi dạy xong một số bài thơ nói trên, chúng tui KTĐG bằng hình thức vấn đáp hay KT viết 15 phút, với những câu hỏi có kiến thức tổng hợp, nâng cao hơn như:
- Trình bày cảm nhận của anh( chị) về nét chung và nét khác biệt về tứ thơ, cảm hứng sáng tác, hình ảnh, ngôn ngữ thơ,... của các bài thơ: Vội vàng ( Xuân Diệu), Tràng giang( Huy Cận),
Đây thôn Vĩ Dạ ( Hàn Mặc Tử),...
2. cách kiểm tra đánh giá:
a/ Kiểm tra thường xuyên: KT vấn đáp và KT 15 phút.
Ở cả 3 khối lớp: 10, 11, 12 , tổ chuyên môn chúng tui thống nhất số lần KTĐG như sau:
- Kiểm tra vấn đáp ( KT miệng): 1 đến 2 lần trong 1 học kì.
- Kiểm tra 15 phút ( KT viết): 3 lần trong 1 học kì.
b/ Kiểm tra định kì:
- Kiểm tra viết từ 1 tiết trở lên: 3 lần trong học kì I; 2 lần trong học kì II ( theo PPCT)
- Kiểm tra tổng hợp cuối HK I và cuối năm.
Như vậy,có sự phối hợp đan xen giữa KT thường xuyên và KT định kì trong năm học.
3. Mục tiêu và yêu cầu đề KTĐG:
a/ Mục tiêu:
- Đánh giá đúng thực chất trình độ, năng lực đọc – hiểu, cảm thụ, bày tỏ thái độ, cảm xúc của HS trước một vấn đề văn chương.
- Góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
- Giảm áp lực thi cử, đảm bảo sự công bằng, khích lệ tinh thần học tập chủ động, sáng tạo và gây sự hứng thú để HS thích học môn Ngữ văn hơn và học tốt hơn.
b/ Yêu cầu:
- Ra đề căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của từng bài học, từng nhóm bài, từng giai đoạn văn học,...; không hình thức “ đối phó” cũng không gây áp lực nặng nề cho HS.
- Nội dung, yêu cầu, cách diễn đạt đề kiểm tra phải rõ ràng, chính xác, khách quan, công bằng, tích hợp cả 3 phân môn: Đọc văn, Làm văn, Tiếng Việt.
- Đề KTĐG đảm bảo các tiêu chí: tính toàn diện, độ tin cậy, tính khả thi, phân hóa đối tượng HS và đạt hiệu quả cao.
- Đối với những đề KT tự luận , chúng tui thường xây dựng dạng đề mở, có phần liên hệ thực tế để khuyến khích tính sáng tạo của HS.
4. Mức độ nhận thức trong đề KTĐG:
Tổ chuyên môn chúng tui đã thống nhất: khi ra đề KTĐG, cần chú trọng 3 lĩnh vực cơ bản: nhận thức, hoạt động (vận dụng) và cảm xúc, thái độ của HS. Từ đó, xây dựng các đề KTĐG với mức độ từ đơn giản đến phức tạp: nhận biết -> thông hiểu -> vận dụng -> phân tích -> tổng hợp -> đánh giá. Cụ thể như sau:
- Đề KTĐG vấn đáp (KT miệng): chủ yếu ở 2 mức độ: nhận biết -> thông hiểu ( vì thời gian KT có hạn).
- Đề KTĐG 15 phút: ở 3 mức độ : nhận biết -> thông hiểu -> vận dụng.
- Đề KT viết từ 1 tiết trở lên: Mức độ nhận thức từ đơn giản đến phức tạp vớ 6 mức độ: nhận biết -> thông hiểu -> vận dụng -> phân tích -> tổng hợp -> đánh giá .
Ví dụ: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng.
5. Hình thức KTĐG:
Hai hình thức KTĐG cơ bản ( vấn đáp, tự luận) được tất cả các GV trong tổ chuyên môn thực hiện đồng bộ ở cả 3 khối lớp 10, 11, 12 như sau:
a/ Hình thức KT vấn đáp ( KT miệng): vận dụng kiểm tra thường xuyên ở mỗi tiết học ( có thể ở đầu , giữa, hay cuối tiết học).
b/ Hình thức KT tự luận:
- Vận dụng ở 3 lần KT 15 phút trong 1 học kì.
- Vận dụng ở các lần KT từ 1 tiết trở lên ( 3 lần KT trong HK I; 2 lần KT trong HK II).
c/ Riêng đề KTĐG tổng hợp cuối học kì I và cuối năm của kh
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status