Tìm hiểu về thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra khuyến nghị để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp - pdf 13

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
A. LỜI MỞ ĐẦU.
Thị trường chứng khoán là một cách huy động vốn đầu tư trung và dài hạn có hiệu quả và có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế xã hội trong từng quốc gia và trên thế giới. Thị trường chứng khoán đòi hỏi một trình độ tổ chức cao, có sự quản lý chặt chẽ trên cơ sở một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh. Trong lịch sử, thị trường chứng khoán đã nhiều lần bị khủng hoảng do tác động của đầu cơ, lừa đảo, thông tin thất thiệt…và suy cho cùng, công chúng đầu tư bị thiệt hại rất lớn. Vào những năm cuối thế kỷ 20, môi trường quản lý thị trường chứng khoán của một quốc gia là một nhân tố quyết định việc đầu tư vào các thị trường mới nổi. Quản lý nghiêm túc là điều kiện tiên quyết để có được một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, trung thực và đáng tin cậy. Một thị trường chứng khoán được quản lý tốt sẽ tác động đến việc nâng cao mạnh mẽ hiệu quả và độ an toàn của thị trường, làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong việc thực hiện các mục tiêu chính của họ là tăng lợi nhuận, giảm chi phí giao dịch và quản lý rủi ro.
Được coi là môi trường đầu tư kinh doanh phức tạp và nhạy cảm, số lượng người tham gia đông đảo, giá trị đầu tư lớn cùng độ rủi ro cao, kéo theo tính cạnh tranh gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích được thiết lập trên thị trường; do vậy, tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán là hiện tượng tất yếu xảy ra. Tuy nhiên, việc xử lý, giải quyết những tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán này như thế nào để có hiệu quả tốt nhất đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Trong phạm vi bài viết này, em xin trình bày một số hiểu biết về thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và một số khuyến nghị để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp này.
B. NỘI DUNG.
I. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp, giải quyết tranh chấp về chứng khoán.
Tranh chấp trên thị trường chứng khoán là những xung đột về quyền và lợi ích phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia thị trường chứng khoán và được thể hiện ra bên ngoài dưới dạng nhu cầu cần giải quyết thông qua hình thức nhất định theo quy định của pháp luật.
Xét về mặt lý thuyết, tranh chấp về chứng khoán tuy có nhiều điểm tương đồng với hầu hết các loại tranh chấp trong lĩnh vực khác nhưng ở mức khái quát, có thể nhận diện tranh chấp này thông qua một số dấu hiệu mang tính đặc trưng sau:
Thứ nhất, về phạm vi chủ thể: Chủ thể của tranh chấp trên thị trường chứng khoán phải là các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán. Tổ chức, cá nhân được coi là tham gia thị trường chứng khoán khi họ thực hiện một số hoạt động mà theo quy định của pháp luật những hoạt động đó chỉ được phép diễn ra trên thị trường chứng khoán. Các chủ thể này bao gồm:
- Tổ chức phát hành thực hiện hoạt động chào bán chứng khoán;
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán;
- Nhà đầu tư gồm các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán thông qua việc mua và bán chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời;
- Ngân hàng giám sát, ngân hàng chỉ định thanh toán;
- Tổ chức lưu ký chứng khoán;
- Trung tâm (sở) giao dịch chứng khoán và các thành viên.
Thứ hai, về đối tượng tranh chấp: Đối tượng tranh chấp trên thị trường chứng khoán là quyền và lợi ích giữa các chủ thể có được do tham gia thị trường chứng khoán. Đối tượng của tranh chấp trên thị trường chứng khoán gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm các quyền và lợi ích phát sinh trên thị trường chứng khoán dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên, thường được ghi nhận trong các bản hợp đồng do các bên ký kết như hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán, hợp đồng tư vấn chứng khoán…Nhóm thứ hai bao gồm các quyền và lợi ích mặc nhiên phát sinh giữa các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán trên cơ sở quy định của pháp luật.
Thứ ba, về giá trị của tranh chấp. Không giống như việc xác định giá của các hàng hóa giao dịch trên các loại thị trường thông thường, giá trị của chứng khoán phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như thông tin thị trường, tâm lý của nhà đầu tư, tình hình kinh tế, chính trị…và quan trọng hơn, giá chứng khoán thường không ổn định. Do vậy, việc xác định giá trị của tranh chấp (nếu có) phát sinh trên thị trường chứng khoán hoàn toàn không dễ dàng nếu xuất phát từ thời điểm, tiêu chí đánh giá khác nhau. Nhìn chung, các tranh chấp xảy ra trên thị trường chứng khoán thường liên quan đến việc một bên bị thiệt hại do sự biến động giá chứng khoán có chủ ý từ bên kia.
II. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có tranh chấp, đảm bảo hoạt động ổn định của toàn thị trường, các tranh chấp cần được giải quyết một cách kịp thời, đúng đắn. Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán là tổng hợp các cách thức, biện pháp do các bên tranh chấp áp dụng trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm loại bỏ xung đột về quyền và lợi ích phát sinh trên thị trường chứng khoán.
Điều 131 Luật chứng khoán quy định: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam có thể được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải hay yêu cầu trọng tài hay tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật”.
1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Thương lượng là việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, trao đổi, đấu tranh, nhân nhượng và thỏa thuận để đi đến thống nhất phương án giải quyết xung đột. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp không chính thức, do các bên tự nguyện áp dụng. Lựa chọn thương lượng, các bên tiết kiệm được thời gian, chi phí - những yếu tố vô cùng quan trọng đối với bất kỳ chủ thể nào tham gia thị trường chứng khoán. Giải quyết bằng thương lượng thường được áp dụng đối với tranh chấp đơn giản, giá trị, tranh chấp không lớn.
2. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên tự thỏa thuận để thống nhất lựa chọn giải pháp chấm dứt xung đột với sự hỗ trợ của người thứ ba đóng vai trò trung gian hòa giải (hòa giải viên). Đối với việc giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán giữa các thành viên, trung tâm giao dịch chứng khoán hay sở giao dịch chứng khoán thường đóng vai trò là trung gian hòa giải. Khoản 8 điều 37 Luật chứng khoán quy định sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán có thể làm trung gian hòa giải nếu được thành viên yêu cầu đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch chứng khoán. Quy định này cho thấy rất nhiều tranh chấp khác phát sinh trên thị trường chứng khoán, có thể thực hiện hòa giải bởi các hòa giải viên khác. Chằng hạn như tranh chấp phát sinh trong quá trình tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành, quản lý quỹ đầu tư hay quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, tranh chấp phát sinh trong quá trình lưu ký chứng khoán.
Cũng giống như các quốc gia có thị trường, trung tâm giao dịch chứng khoán ở Việt Nam thành lập ban hòa giải, ban hành văn bản quy định về trình tự, thủ tục hòa giải nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp bằng con đường này.
Ban hòa giải gồm có trưởng ban hòa giải là giám đốc hay phó giám đốc trung tâm giao dịch chứng khoán, thay mặt phòng giám sát thị trường, các phòng chức năng có liên quan và thay mặt của các công ti chứng khoán thành viên cùng một số thành viên khác theo đề nghị của trưởng ban hòa giải.
Quá trình hòa giải gồm bốn bước cơ bản sau:
- Bước 1: Tiếp nhận đơn đề nghị hòa giải. Bên yều cầu hòa giải gửi đơn đề nghị hòa giải và các chứng từ tài liệu cần thiết đến trung tâm. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận, trung tâm phải gửi bản sao đơn cho bị đơn.
- Bước 2: Chuẩn bị hòa giải. Trong thời hạn 15 ngày, bị đơn phải gửi văn bản trả lời chấp nhận hay không chấp nhận việc hòa giải. Trường hợp bị đơn chấp nhận hòa giải, giám đốc trung tâm kí quyết định thành lập ban hòa giải. Ban hòa giải tiến hành triệu tập trực tiếp hay yêu cầu các bên giải thích bằng văn bản, cung cấp chứng cứ và tài liệu khác, ra quyết định đình chỉ hòa giải trong một số trường hợp nhất định, ấn định thời gian địa điểm diễn ra phiên hòa giải, gửi giấy triệu tập hòa giải cho các bên trước ngày hòa giải ít nhất 15 ngày.
- Bước 3: Tiến hành hòa giải dưới sự chủ trì của trưởng ban hòa giải.
- Bước 4: Hòa giải kết thúc bằng việc ban hòa giải lập biên bản hòa giải thành hay biên bản hòa giải không thành tùy theo kết quả của phiên hòa giải. Việc thực hiện kết quả hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của các bên.
3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên (với tư cách là bên thứ ba độc lập) nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Trọng tài được sử dụng phổ biến để giải quyết các tranh chấp trên thị trường chứng khoán nói riêng và tranh chấp kinh doanh nói chung bởi tranh chấp luôn được giải quyết tận gốc bằng phán quyết chung thẩm, có tính bắt buộc chung trong khi thời gian và chi phí không cao, thủ tục đơn giản, không cứng nhắc. Tuy nhiên, khi đã lựa chọn hình thức trọng tài, các bên đương nhiên mất quyền khởi kiện vụ tranh chấp tại tòa án.
Theo quy định chung, trọng tài có thẩm quyền giải quyết một vụ tranh chấp khi tranh chấp đó phát sinh trong hoạt động thương mại, tức là phát sinh giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh trong quá trình thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại đồng thời trước hay sau khi phát sinh tranh chấp, các bên có thỏa thuận trọng tài.
Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán tại trọng tài thương mại phải tuân theo trình tự thủ tục luật định. Do pháp luật chuyên ngành không có quy định riêng nên theo quy định chung của pháp luật tố tụng trọng tài, thời hiệu khởi kiện tranh chấp trên thị trường chứng khoán nói riêng và tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nói chung là 2 năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp. Pháp luật cho phép các bên lựa chọn một trong hai hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp, tại các trung tâm trọng tài hay hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Trường hợp các bên lựa chọn trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi trung tâm trong đó chỉ rõ tên trọng tài viên đã chọn. Trung tâm trọng tài sẽ gửi bản sao đơn kiện kèm theo danh sách trọng tài viên của trung tâm cho bị đơn. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được, bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ cùng tên trọng tài viên đã chọn. Hai trọng tài viên được chọn thống nhất chọn trọng tài viên thứ ba là chủ tịch hội đồng trọng tài. Chủ tịch trung tâm trọng tài có thể chỉ định trọng tài viên nếu hết thời hạn mà bị đơn không chọn trọng tài viên hay hai trọng tài viên không thống nhất chọn được trọng tài viên thứ ba. Đối với trường hợp hội đồng trọng tài do các bên thành lập, thay vì gửi đơn lên trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải gửi đơn đến bị đơn và quyền chỉ định trọng tài viên giúp các bên thuộc về tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hay cư trú. Tổng thời gian tính từ thời điểm gửi đơn kiện đến khi hội đồng trọng tài được thành lập không quá 59 ngày. Sau khi được chỉ định, các trọng tài viên phải nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc nếu thấy cần thiết, có quyền gặp các bên để nghe các bên trình bày ý kiến, yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ liên quan hay tự mình thu nhập chứng cứ. Các trọng tài viên vẫn có thể bị thay đổi trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp nếu có yếu tố ảnh hưởng đến tính khách quan trong công việc phân xử của họ.
Thời gian mở phiên họp do chủ tịch hội đồng trọng tài quyết định nếu các bên không có thỏa thuận khác. Phiên họp không công khai, trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, các bên có quyền làm đơn yêu cầu tòa án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài thụ lý áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại. Hội đồng trọng tài ra quyết định dựa trên nguyên tắc đa số và quyết định này có tính cưỡng chế thi hành như bản án do tòa tuyên.
4. Giải quyết tại tòa án.
Giải quyết tranh chấp tại tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp theo đó một bên bằng đơn kiện yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và tòa án theo thủ tục luật định sẽ đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Lựa chọn hình thức này, các bên phải tuân thủ trình tự thủ tục pháp lý phức tạp, thời gian bị kéo dài, công sức và chi phí cao. Do vậy, giải quyết tranh chấp bằng toàn án chủ yếu trong trường hợp các bên không đồng ý hòa giải, hòa giải không thành hay không thể áp dụng hình thức trọng tài.
- Về thẩm quyền: Thẩm quyền của tòa án về giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ dân sự được pháp luật phân định theo vụ việc, theo cấp tòa án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Theo vụ việc, căn cứ vào điều 29 BLTTDS, có thể xác định các tranh chấp trên thị trường chứng khoán thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế và tòa dân sự.
Thẩm quyền theo cấp của tòa án để giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán. Căn cứ quy định tại điều 33,34 BLTTDS, tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về mua bán chứng khoán giữa các tổ chức, cá nhân có đăng kí kinh doanh và tranh chấp giữa công ti với cổ đông hay giữa các cổ đông với nhau, không phụ thuộc vào dấu hiệu có yếu tố nước ngoài trong tranh chấp. Các tranh chấp còn lại thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh nếu đương sự hay tài sản ở nước ngoài hay cần ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
Việc xác định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn đối với các tranh chấp trên thị trường chứng khoán cũng giống như mọi tranh chấp giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự
- Về thời hiệu: Thời hiệu khởi kiện của các tranh chấp trên thị trường là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
- Trình tự, thủ tục: Thủ tục tố tụng bắt đầu từ thời điểm tòa án thụ lí đơn kiện của nguyên đơn và kết thúc bằng bản án do hội đồng xét xử tuyên. Pháp luật hiện hành quy định rõ, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tối đa là 6 tháng (kể từ ngày thụ lí) đối với tranh chấp về dân sự và 3 tháng đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại, tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Trường hợp hòa giải thành, thẩm phán lập biên bản hòa giải thành. Các bên được pháp luật dành cho một khoảng thời gian cần thiết là bảy ngày (kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành) để suy nghĩ và cân nhắc những nội dung đã thỏa thuận. Hết thời hạn mà không có bên nào thay đổi ý kiến, thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trường hợp hòa giải không thành, thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đương sự có thể tự mình tham gia hay cử người thay mặt và có quyền tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử làm việc tập thể và ra bản án giải quyết vụ tranh chấp theo nguyên tắc đa số dựa trên kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Bản án có hiệu lực bắt buộc thi hành tuy nhiên nếu không đồng ý với quyết định phân xử của tòa, các bên tranh chấp có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm hay giám đốc thẩm.
III. Thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
1. Đề cao vai trò của thương lượng, hòa giải nhưng chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.


V9Wa58BBE4Sov8H
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status