Giải quyết xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế - pdf 13

Download Giải quyết xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế miễn phí



Tuyệt đại đa số các nước đều áp dụng hệ thuộc “nơi thực hiện việc nuôi con nuôi” (nơi xảy ra hành vi pháp lý) để xác định pháp luật áp dụng đối với hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Trong các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước cũng áp dụng hệ thuộc này. Điều đó hiểu rằng, trong trường hợp trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi tại các nước đã ký kết Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam, thì hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi đó sẽ được xác định theo pháp luật của nước ký kết, nơi thường trú của cha mẹ nuôi. Như vậy, Việt Nam đã chấp nhận toàn bộ nội dung của hệ quả pháp lý phát sinh từ việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi tại nước ký kết Hiệp định, tất nhiên, bao gồm cả việc chấm dứt hoàn toàn quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giứa cha mẹ đẻ và trẻ em, trong đó có quan hệ thừa kế theo pháp luật.
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37872/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VÀ XUNG ĐỘT THẨM QUYỀN VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ NGUYỄN CÔNG KHANH Phó Cục trưởng Cục Con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp Việt Nam
Quan hệ nuôi con nuôi trong tư pháp quốc tế Việt Nam là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, tức là nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài – xét theo nghĩa hẹp. Tuy rằng Việt Nam chưa ban hành đạo luật riêng về tư pháp quốc tế để điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi, song trên thực tế, các quan hệ này đã được điều chỉnh “lồng ghép” trong các văn bản pháp luật dân sự của Việt Nam. Các quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh chủ yếu trong Bộ luật dân sự; Luật hôn nhân và gia đình (chương XI); Nghị định 68/2002/NĐ-CP và đặc biệt, trong các hiệp định song phương về tương trợ tư pháp và hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước (xin lưu ý, cho đến nay, Việt Nam chưa là thành viên của bất kỳ điều ước quốc tế đa phương nào trong lĩnh vực tư pháp quốc tế liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi). Dưới góc độ tư pháp quốc tế, theo tôi, có hai vấn đề cơ bản cần xem xét giải quyết khi đề cập đến quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là: lựa chọn pháp luật áp dụng đối với các vấn đề xoay quanh quan hệ nuôi con nuôi (như điều kiện nuôi con nuôi – đối với người xin nhận con nuôi, đối với trẻ em; sự đồng ý cho trẻ em làm con nuôi; hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi) và lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết các việc về nuôi con nuôi của Việt Nam hay của nước ngoài (cơ quan hành chính đối với việc đăng ký hộ tịch và cơ quan tố tụng đối với tranh chấp về nuôi con nuôi). Đó là những vấn đề, tuy được quy định trong pháp luật Việt Nam hiện nay liên quan đến chế định nuôi con nuôi dưới khía cạnh tư pháp quốc tế, nhưng chắc chắn rằng, chưa hoàn toàn đầy đủ và ở mức độ nhất định, còn có tính áp đặt chủ quan, mang nặng tư duy pháp lý của một nước cho trẻ em làm con nuôi là chủ yếu (nước gốc). 1. Luật nhân thân (lex personalis) – nguyên tắc cơ bản được lựa chọn để giải quyết xung đột pháp luật về nuôi con nuôi Phù hợp với tư pháp quốc tế của nhiều nước, tư pháp quốc tế Việt Nam cũng thừa nhận và áp dụng hệ thuộc Luật Nhân thân (lex personalis) như một hệ thuộc cơ bản để giải quyết xung đột pháp luật trong các quan hệ về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, như xung đột về điều kiện nuôi con nuôi, về các hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. 1.1. Điều kiện nuôi con nuôi 1.1.1. Đối với người xin nhận con nuôi - Theo Điều 105 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (HNGĐ), có hai hệ thuộc cùng được áp dụng để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi là pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước mà người xin nhận con nuôi có quốc tịch (Lex Nationalis). - Theo Điều 37 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, cũng có hai hệ thuộc cùng được áp dụng để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi thường trú (Lex Domicili). - Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước (Nga, Séc, Xlôvakia, Bungary, Hungary, Ucraina, Cuba,…), áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch (Lex Nationalis) của người xin nhận con nuôi để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với người đó; riêng Hiệp định tương trợ tư pháp với Lào thì áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của trẻ em được xin làm con nuôi. - Còn trong các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước (Pháp, Italia, Đan Mạch, Ailen, Thụy Điển, Bỉ), cũng áp dụng hai hệ thuộc để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi là pháp luật của Nước nhận (nơi người xin con nuôi thường trú) và pháp luật của Nước gốc (nơi trẻ em thường trú và có quốc tịch). Như vậy, trong tư pháp quốc tế Việt Nam, hệ thuộc luật nhân thân của người xin con nuôi (Lex Personalis) là hệ thuộc cơ bản được thống nhất áp dụng để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành các quy định trên đây, đôi khi cũng nảy sinh những khó khăn, phức tạp, bởi các quy định trên đây, tưởng như chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng bản thân nó lại chứa đựng những điểm mâu thuẫn hay không rõ ràng, gây khó khăn trong việc áp dụng. Đó là việc áp dụng quy định tại Điều 105 khoản 1 của Luật hôn nhân và gia đình và Điều 37 của Nghị định 68/2002/NĐ-CP. Ví dụ, trong việc xác định pháp luật áp dụng về điều kiện nuôi con nuôi đối với một công dân Nga nhưng thường trú tại Pháp, muốn xin nhận trẻ em Việt Nam thường trú tại Việt Nam làm con nuôi. Về nguyên tắc, trước hết, người đó phải đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam (Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình). Ngoài ra, theo Điều 105 của Luật Hôn nhân và gia đình, người đó còn phải tuân theo pháp luật của Nga về nuôi con nuôi (theo hệ thuộc lex nationalis). Điều đó cũng phù hợp với quy định tại Điều 28 khoản 1 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Nga. Tuy nhiên, vì người đó thường trú tại Pháp, nên người đó lại còn phải tuân theo pháp luật của Pháp (nơi thường trú) về điều kiện nuôi con nuôi (theo Điều 37 Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Điều 10 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi Việt – Pháp). Như vậy, ở đây có ba hệ thống pháp luật cùng được áp dụng để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với cha mẹ nuôi (pháp luật Việt Nam – nơi trẻ em thường trú và có quốc tịch; pháp luật Pháp – nơi người đó thường trú). Vấn đề phức tạp đặt ra là, nếu pháp luật của ba nước này có những quy định khác nhau về điều kiện nuôi con nuôi (mà chắc chắn là khác nhau), thì áp dụng pháp luật nước nào? Điều may mắn là, trong pháp luật Việt Nam có quy định một nguyên tắc “nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hay gia nhập có quy định khác, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó” (Điều 7 khoản 2 Luật HNGĐ, Điều 4 Nghị định 68/2002/NĐ-CP). Nhưng lưu ý là, trong ví dụ trên đây có hai loại điều ước quốc tế của Việt Nam liên quan đến vấn đề chọn luật áp dụng để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với cha mẹ nuôi, trong đó Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Nga thì theo hệ thuốc luật quốc tịch và Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi Việt – Pháp thì theo hệ thuộc luật nơi cư trú. Do đó, câu hỏi tui muốn đặt ra tại hội thảo này là, sẽ phải áp dụng quy định của hiệp định nào trên đây để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với trường hợp cụ thể trong ví dụ nêu trên? 1.1.2. Đối với trẻ em được cho làm con nuôi Trong tất cả các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giứa Việt Nam với các nước, đều thống nhất áp dụng pháp luật của Nước gốc (nước mà trẻ em có quốc tịch và thường trú) để xác định điều kiện của trẻ em được cho làm con nuôi. Điều kiện cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi được quy định tại Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 36 Nghị đ
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status