Tiểu luận Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Việt Nam - pdf 13

Download Tiểu luận Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Việt Nam miễn phí



Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Việc khôi phục chế độ tài sản chung phải theo thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Trong văn bản này bắt buộc phải ghi rõ lí do khôi phục tài sản chung, phần tài sản riêng của mỗi bên, phần tài sản chung (nếu có), thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung. Văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ bắt buộc phải có chữ kí của cả hai vợ chồng, không bắt buộc phải có người làm chứng hay công chứng chứng thực, kể cả trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng chứng thực nhưng không phải là trường hợp bắt buộc phải công chứng chứng thực theo qui định của pháp luật. Chỉ có qui định bắt buộc phải công chứng chứng thực đối với các văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo qui định của pháp luật[47].


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37539/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

được lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng, một số trường hợp pháp luật qui định thì văn bản đó phải được công chứng chứng thực. Việc thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhằm trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản thì sẽ bị vô hiệu[29]. Một số trường hợp đặc biệt Quyền sử dụng đất có được trong thời kì hôn nhân Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2002, “Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hay chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”. Thực ra theo luật thì qui định về quyền sử dụng đất không có gì đặc biệt hơn so với qui định về các tài sản khác. Cũng có thể nói là việc qui định riêng về quyền sử dụng đất này không cần thiết nếu như quyền sử dụng đất tự bản thân nó không có những điểm đặc thù và tầm quan trọng nhất định. Quyền sử dụng đất là một loại quyền dân sự đặc thù, là loại quyền phụ thuộc, chịu sự chi phối bởi quyền độc lập là quyền sở hữu toàn dân của đất đai, vợ chồng chỉ có quyền được quyền tài sản này khi được nhà nước giao đất hay cho thuê đất[30]. Việc qui định riêng về quyền sử dụng đất có lẽ chỉ để làm rõ về chế độ pháp lí của loại tài sản này trong quan hệ vợ chồng. Tài sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Các trường hợp tài sản có được là tài sản do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các trường hợp tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của vợ hay chồng hay cả hai bị xâm phạm có phải là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng không? Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản riêng của vợ chồng bao gồm những tài sản tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân; đồ dùng, tư trang cá nhân[31]. Như vậy theo qui định này thì tài sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là tài sản riêng. Chính vì thế mà chỉ còn cách xác định nó là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên về mặt thực tế nếu tài sản bị xâm phạm thì khoản tiền bồi thường có thể được coi là tài sản chung (điều này cũng hợp lí bởi ngay cả khi bán tài sản để mua tài sản mới thì tài sản mới cũng thuộc tài sản chung); nếu khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho thu nhập thực tế bị mất hay bị giảm sút do bị thiệt hại về sức khỏe thì đó rõ ràng là tài sản chung giống như thu nhập hợp pháp vậy; nếu như trong trường hợp khoản tiền bồi thường là để lo cho chi phí thuốc thang… thì đó cũng có thể coi là tài sản chung bởi thực tế thì khối tài sản chung phải ứng trước để lo chi trả cho thuốc thang và bởi vì cũng có thể coi đây là nhu cầu thiết yếu của gia đình; tuy nhiên trường hợp khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm thì sao? Theo đúng qui định của luật thì nó là tài sản chung, nhưng lí giải nó như thế nào? Có lẽ chỉ còn cách lí giải duy nhất là khi vợ chồng gắn bó với nhau thì coi nhau như một, mọi sự tổn hại về tinh thần của người này cũng là tổn hại về tinh thần, danh dự của người kia, nên tài sản bồi thường là tài sản chung. Tài sản trí tuệ Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tất cả các tài sản, thu nhập hợp pháp được tạo ra trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên với tài sản trí tuệ thì lại khác mặc dù nó cũng là một loại tài sản dưới dạng quyền tài sản. Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, người ta chỉ có thể thể hiện quyền sở hữu với nó thông qua các quyền tài sản. Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu đối với giống cây trồng[32] trong đó có các quyền tài sản. Các chủ sở hữu đối với ba loại quyền trên đã được chỉ rõ trong Luật Sở hữu trí tuệ. Cụ thể: chủ sở hữu quyền tác giả chỉ bao gồm tác giả (người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm), đồng tác giả, tổ chức cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hay kí kết hợp đồng với tác giả, người thừa kế; người được tác giả trao quyền theo hợp đồng, Nhà nước[33]; chủ sở hữu quyền liên quan chỉ có thể là những cá nhân, tổ chức đã được qui định cụ thể trong điều 44 Luật Sở hữu trí tuệ; chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp đã được qui định rõ trong điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ… Như vậy, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành là Luật Sở hữu trí tuệ thì vợ hay chồng của chủ sở hữu đối với các quyền sở hữu trí tuệ không mặc nhiên là chủ sở hữu của các tài sản trí tuệ, chính vì thế mà họ hoàn toàn không thể tham gia cùng với vợ (chồng) mình định đoạt, sử dụng tài sản trí tuệ đó, người sử dụng tài sản trí tuệ cũng không phải xin phép cả hai vợ chồng khi sử dụng tài sản trí tuệ theo qui định của luật. Chỉ có nhuận bút, thù lao, và các quyền lợi vật chất khác là thuộc sở hữu chung của vợ chồng vì đây là thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. 2.1.2. Nguyên tắc của việc qui định tài sản chung Theo nguyên tắc của luật dân sự thì quyền sở hữu chung được xác lập trên cơ sở thỏa thuận của các chủ sở hữu hay qui định của pháp luật hay theo tập quán. Theo những phân tích ở phần trên (2.1.1) ta thấy tài sản chung của vợ chồng được xác định theo các nguyên tắc sau: Các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng hoàn toàn tuân theo qui định của pháp luật[34]. Tuy nhiên tài sản chung của vợ chồng cũng được xác định theo hai cách đối với những tài sản có nguồn gốc khác nhau. Theo cách bắt buộc đối với những tài sản là tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác; theo cách tôn trọng ý chí của người có tài sản: đối với những tài sản mà chủ sở hữu đã chỉ rõ là cho vợ chồng thừa kế chung hay đã chỉ rõ là tặng cho chung hai vợ chồng thì đó là tài sản chung của vợ chồng, tôn trọng ý chỉ của vợ, chồng nên những tài sản nào vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung nó cũng thuộc khối tài sản chung. Theo qui định của pháp luật thì có vẻ như những tài sản nào có được trong thời kì hôn nhân mà phải đền bù thì đều coi là tài sản chung. Có lẽ là do tính cộng đồng của hôn nhân nên mọi thứ của hai vợ chồng lúc đó đều là của nhau. Chính vì vậy mọi thứ vợ chồng bỏ ra trong thời kì hôn nhân đều được coi là của chung, và thứ có được nhờ nó cũng phải được coi là của chung. Vậy nên lương, tiền thưởng, lợi nhuận do sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung. Những tài sản nào mà không đủ chứng cứ chứng minh là tài sản riêng thì là tài sản chung. Nguyên tắc này đư
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status