Tiểu luận Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong bộ luật dân sự 2005, thực trạng và giải pháp - pdf 13

Download Tiểu luận Các cách bảo vệ quyền sở hữu trong bộ luật dân sự 2005, thực trạng và giải pháp miễn phí



A. Đặt vấn đề 2
B. Nội dung 2
I. Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu 2
1. Quyền sở hữu: 2
 Quyền chiếm hữu: 3
 Quyền sử dụng: 4
 Quyền định đoạt: 4
2. Bảo vệ quyền sở hữu: 5
II. Các cách bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự 6
1.Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp 6
2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại: 10
3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại: 13
3.1. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu: 14
3.2. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản. 15
3.3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải bồi thường thiệt hại. 23
III. Thực trạng và giải pháp 25
1. Nên cụ thể hoá hơn quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu. 26
2. Cần có biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh mẽ hơn. 28
3. Hoàn thiện pháp luật và thiết chế đăng ký tài sản. 28
4. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn. 29
C. Kết thúc vấn đề 29
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37447/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

i giám hộ có nghĩa vụ:
“1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.
Tất nhiên, bù lại, người giám hộ sẽ được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý, bảo vệ tài sản của người được giám. Nếu người giám hộ có hành vi vi phạm pháp luật (như lợi dụng việc giám hộ để chiếm đoạt tài sản của người được giám hộ), thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trong trường hợp này, việc giám hộ bị chấm dứt để thay thế bằng một quan hệ giám hộ mới, với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Một biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu rất có hiệu quả của chủ sở hữu là biện pháp đăng ký quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý của quyền này là Điều 167 - BLDS. Tuy nhiên, để xác định những loại tài sản nào phải đăng ký thì không chỉ dựa vào Bộ luật dân sự mà còn dựa vào các văn bản pháp luật chuyên ngành (Bộ luật Hàng hải, Luật Đất đai, Luật Hàng không dân dụng…). Thông thường, tài sản đó là nhà ở, quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy, tàu thuỷ, thuyền, máy bay… Việc đăng ký tài sản rất có ý nghĩa, vì trong các hợp đồng dân sự đòi hỏi phải đăng ký, nó là thời điểm hoàn tất việc chuyển giao quyền sở hữu, đồng thời là cũng là thời điểm để chủ sở hữu có thực hiện quyền của mình với người thứ ba khi tài sản có tranh chấp. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng việc đăng ký tài sản ở Việt Nam hiện nay được thực hiện chưa nghiêm túc. Nguyên nhân là do thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí cao so với mức sống trung bình của người dân, song nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt. Đây là một thực tế gây rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp xảy ra.
Trên thực tế, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất. Người Việt Nam có truyền thống “ dĩ hòa vi quý ”, kiện nhau ra Toà cũng chỉ là trường hợp bất đắc dĩ. Tuy nhiên, với sự phát triển của cơ chế thị trường, trong những năm gần đây, các hành vi vi phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp bắt đầu có xu hướng tăng. Trong những trường hợp này, biện pháp tự bảo vệ xem ra không còn phát huy tác dụng, và chủ sở hữu phải sử dụng đến các biện pháp khác để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại:
Ví dụ 1: A là chủ sở hữu của một căn nhà. B là hàng xóm của A, trong khi đào móng làm nhà, đã đào sát tường nhà A, làm sụt và nứt tường của nhà A.
Ví dụ 2: C là chủ sở hữu một căn nhà. D là hàng xóm của C đã để ống thoát nước mưa của nhà mình chảy dội sang nhà C, làm ngấm tường của nhà C. Trong một lần mưa to, lượng nước mưa chảy xuống nhiều đã làm hư hỏng bức tranh quý của nhà C treo trên tường.
Các ví dụ trên xảy ra rất phổ biến trong thực tế. Trong các trường hợp trên, A và C với tư cách là chủ sở hữu có quyền gì đối với B và D không? Theo các quy định của BLDS Việt Nam, thì A và C, với tư cách là chủ sở hữu có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, có quyền yêu cầu B và D – những người có hành vi cản trở việc thực hiện quyền sở hữu của mình – phải chấm dứt hành vi vi phạm. Tức là A có quyền yêu cầu B phải ngừng việc đào móng sát tường nhà của mình để tìm biện pháp khác; C có quyền yêu cầu D phải dẫn nước thoát theo đường ống khác để nước không chảy và ngấm sang tường nhà mình.
Tuy nhiên, tường nhà của A đã bị sụt và nứt, bức tranh quý của nhà C đã bị hư hỏng. A và C có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo cách thức và mức do hai bên thoả thuận.
Đây chính là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế thường thông qua con đường các bên tự thỏa thuận. Như đã nói ở trên, xuất phát từ nguyên tắc tự định đoạt, nên các bên hoàn toàn có quyền tự bàn bạc, thu xếp với nhau mà không cần thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cơ chế này tỏ ra rất hữu hiệu trong rất nhiều trường hợp, vì nó có những lợi ích cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, các bên không phải mất thời gian, chi phí để khởi kiện tại Toà án hay cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
- Thứ hai, xét về mặt tình cảm, như đã nói ở trên, với truyền thống “ dĩ hòa vi quý ” của người Việt Nam, thì cách tự dàn xếp này nếu thành công sẽ giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng nghĩa xóm;
- Thứ ba, nếu dàn xếp được, thì thông thường là các bên sẽ tự nguyện chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục và bồi thường thiệt hại, khỏi phải thông qua cơ chế thi hành bản án, quyết định dân sự - một vấn đề rất nhức nhối hiện nay khi các bản án, quyết định dân sự còn tồn đọng, không được thi hành trên thực tế còn đang chiếm một tỷ lệ rất lớn;
- Thứ tư, có một thực tế ở Việt Nam hiện nay là nhiều vụ án hình sự ( giết người, cố ý gây thương tích, cố ý huỷ hoại tài sản…) có nguồn gốc từ các tranh chấp dân sự. Nếu hoà giải thành thì có thể tránh được những trường hợp đau lòng, gây thiệt hại cho các bên và cho xã hội.
Rõ ràng, cơ chế trên vừa đem lại lợi ích cho các bên cũng như cho Nhà nước. Nhận thức được những lợi ích này, Nhà nước ta đã thiết lập cả một thể chế, thiết chế về hoà giải. Về thể chế, đó là Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thiết chế, đó là các Tổ hoà giải ở cơ sở ( xóm, thôn, tổ dân phố ) dưới sự quản lý và hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Tư pháp xã phường và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Đây chính là một trong những điểm ưu việt của pháp luật Việt Nam, được quốc tế đánh giá cao.
Cũng giống như biện pháp chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, biện pháp tự dàn xếp này cũng có giới hạn của nó. Giới hạn đó cũng chính là “ lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác ”. Các hành vi như tự ý tổ chức “ cưỡng chế đòi nợ ”, thoả thuận dàn xếp với nhau để vi phạm quyền lợi của người thứ ba… đều bị coi là hành vi trái pháp luật và bị xử lý ( cả về mặt hình sự hay hành chính nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay vi phạm ). Pháp lệnh hoà giải cũng quy định phạm vi hoà giải không bao gồm các vụ việc có dấu hiệu hình sự hay hành chính. Trong những trường hợp trên, việc chủ sở hữu thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình đã vượt quá giới hạn cần thiết và do vậy bị coi...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status