Tiểu luận Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên - pdf 13

Download Tiểu luận Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên miễn phí



Mục Lục
Trang
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I. Khái quát về CTNN và CTTNHH một thành viên. 2
1. Khái niệm Công ty nhà nước.
2. Vai trò của công ty nhà nước.
3. Tính tất yếu của việc chuyển đổi CTNN.
3.1. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi
3.1.1. Cơ sở lý luận.
3.1.2. Cơ sở thực tiễn.
3.2. Tính chủ quan của việc chuyển đổi CTNN.
4. Đặc điểm của công ty TNHH một thành viên.
II. Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
1. Đối tượng chuyển đổi.
2. Điều kiện chuyển đổi từ CTNN sang CTTNHH một thành viên.
3. Trình tự, thủ tục chuyển đổi.
3.1. Chuẩn bị chuyển đổi
3.2. Xây dựng phương án chuyển đổi
3.3. Thẩm định, phê duyệt và triển khai thực hiện đề án chuyển đổi
3.4. Quyết định chuyển đổi.
III. Thực trạng pháp luật và giải pháp thi hành pháp luật về chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên.
1. Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên theo LDN 2005.
2.Giải pháp thực thi pháp luật về chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành.
2
2
3
3
3
4
5
6
 
7
7
9
9
10
11
11
12
 
 
12
 
12
 
13
 
 
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37438/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hóa đất nước.
Năm là, CTNN góp phần quan trọng vào việc tích lũy, đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Sáu là, CTNN góp phần không nhỏ trong việc đảm nhận những trách nhiệm xã hội như: giải quyết việc làm cho người lao động; nhất là các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; phát triển những vùng khó khăn, kém phát triển; cung cấp dịch vụ bảo đảm các mục tiêu xã hội v.v..
Bảy là, Trong điều kiện hiện nay, CTNN còn được Nhà nước sử dụng như những yếu tố mang tính hạt nhân, nòng cốt trong việc liên doanh, liên kết làm đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Qua đó, vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vừa bảo đảm định hướng XHCN cho nền kinh tế.
3. Tính tất yếu của việc chuyển đổi CTNN.
3.1. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi.
3.1.1. Cơ sở lý luận.
Đối với Việt Nam từ trước đến nay, khu vực kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò “chủ đạo” trong nền kinh tế quốc dân, là trụ cột của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong thời kỳ tồn tại cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Chuyển sang cơ chế thị trường, việc làm thế nào để các CTNN vốn hình thành trong nền kinh tế kế hoạch trước kia có thể tiếp tục tồn tại và phát triển đã trở thành một vấn đề cấp bách cần giải quyết. Bước sang thời kỳ mới kinh tế ngoài quốc doanh trong nước phát triển mạnh mẽ, các CTNN dần mất vị trí độc quyền trong các ngành nghề lĩnh vực. Các CTNN lúc này không những phải đương đầu với các thành phần kinh tế khác trong nước mà còn phải đương đầu cạnh tranh với hàng hóa và kỹ thuật nước ngoài. Cải cách CTNN trong bối cảnh đó được coi là khâu trung tâm để xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của CTNN. Nhưng các CTNN vẫn còn tồn tại những mạt hạn chế yếu kém nhất định như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa tập trung vào ngành lĩnh vực then chốt; trình độ công nghệ còn lạc hậu; quản lý còn yếu kém; chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước; v.v..
3.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Như đã phân tích ở trên, qua một thời gian Đảng và Nhà nước cũng đã có những điều chỉnh với khối CTNN cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường thì sự chuyển biến như vậy là chưa đủ. Với sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, của hoạt động đàu tư nước ngoài tại Việt Nam thì CTNN đã gặp khó khăn và bộc lộ những hạn chế của nó. Đặt ra việc chuyển đổi loại hình thức của CTNN sẽ tìm ra giải pháp mới cho vấn đề sản xuất kinh doanh của CTNN. Từ đó, giúp nó hoạt động hiệu quả hơn, khẳng định được vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế hướng tới xây dựng nó theo mô hình kinh tế hiện đại là hết sức cần thiết.
Mặt khác, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, APEC, ASEM, WTO, nhưng việc gì cũng có hai mặt của nó. Việc tham gia các tổ chức đã và sẽ đặt ra những thời cơ cũng như thách thức trong việc thực hiện thể chế kinh tế vủa nước ta. Đặc biệt đối với WTO, để có thể tận dụng được hết những điều kiện thuận lợi khi đã trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cần hiểu các nguyên tắc, thủ tục gia nhập WTO, cũng như những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam sẽ gặp phải trong quá trình gia nhập của mình, để từ đó đưa ra những đối sách thích hợp. Một trong những yêu cầu quan trọng là Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách hệ thống pháp luật và đổi mới quản lý Nhà nước bằng pháp luật, với nền kinh tế theo hướng minh bạch, bình đẳng. Trong đó, có vấn đề về chuyển đổi khối CTNN.
Mặc dù, các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế, trong đó có WTO không quy định việc điều chỉnh cơ cấu, phạm vi CTNN đối với các thành viên gia nhập, nhưng việc tạo ra một “sân chơi công bằng” trong sản xuất và kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân là một trong những vấn đề mà WTO và các thành viên hết sức quan tâm.
Điều XVII Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) quy định: “ Các quốc gia phải cam kết rằng nếu muốn thành lập DNNN, cho dù đặt ở đâu, hay trao cho bất cứ doanh nghiệp nào những ưu đãi dù là hình thức hay thực tế thì các doanh nghiệp đó trong các hoạt động mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu phải ứng xử phù hợp với các nguyên tắc không phân biệt đối xử được thỏa thuận này quy định với các biện pháp của Chính phủ áp dụng với các nhà xuất nhập khẩu tư nhân”.
Từ quy định trên cho thấy, yêu cầu đối với các nước gia nhập WTO là phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử giữa các DNNN và công ty tư nhân, giữa các CTNN với các công ty nước ngoài trong hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, các thành viên còn phải cam kết giảm dần vai trò của các DNNN, còn đối với một số lĩnh vực cần giữ lại sự độc quyền của Nhà nước thì phải xác định lộ trình bãi bỏ và phải thông báo với các thành viên của WTO. Có thể thấy, đây chính là một trong các yêu cầu khách quan của việc chuyển đổi từ mô hình DNNN nói chung hay CTNN nói riêng.
Do đó, việc cải cách kinh tế là yêu cầu bắt buộc. Trong đó, yêu cầu cải cách toàn diện khối CTNN cả về cơ cấu và cơ chế quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh trước hết là trong nước và cao hơn là trên trường quốc tế.
3.2. Tính chủ quan của việc chuyển đổi CTNN.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước quản lý các hoạt động doanh nghiệp nói chung, CTNN nói riêng bằng các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế v.v.. Do đó, việc chuyển đổi hình thức CTNN ở nước ta còn xuất phát từ nội tại phát triển nền kinh tế ở nước ta. Nó thể hiện ở những khía cạnh:
- Đây là cách hữu hiệu nhất để tách bạch hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các CTNN.
- Việc chuyển đổi CTNN là phân biệt quan trọng nhằm xác lập địa vị pháp lý của CTNN nói riêng và DNNN nói chung trong nền kinh tế, đồng thời quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ sở hữu nhà nước đối với CTNN.
- Việc chuyển đổi các CTNN góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của CTNN, từ đó đưa hệ thống DNNN chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
4. Đặc điểm của công ty TNHH một thành viên.
Với việc chọn công ty TNHH một thành viên là một hình thức chuyển đổi xuất phát từ các ưu thế của công ty TNHH một thành viên (theo quy định tại LDN năm 2005). Đó là:
Một là, Công ty do một tổ chức hay một cá nhân là chủ sở hữu (được gọi là chủ sở hữu công ty), không có quyền phát hành cổ phiếu, chủ sở hữu công ty không được rút một phần hay toàn bộ vốn đã góp và công ty mà chỉ có quyền rút vốn bằng cách...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status