Quản lý nhà nước đối với báo chí - pdf 13

Download Luận văn Quản lý nhà nước đối với báo chí miễn phí



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ 4
1.1 Khái quát về báo chí 4
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và lịch sử hình thành báo chí 4
1.1.1.1. Khái niệm báo chí. 4
1.1.1.2. Đặc điểm của báo chí 6
1.1.1.3. Lịch sử hình thành, phát triển của báo chí thế giới và Việt Nam. 10
1.1.2. Các loại hình báo chí trong giai đoạn hiện nay. 15
1.1.2.1. Báo in. 15
1.1.2.2. Báo nói. 16
1.1.2.3. Báo hình. 18
1.1.2.4. Báo điện tử. 19
1.1.3. Giá trị và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội. 21
1.2. Quản lý nhà nước đối với báo chí. 24
1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí. 24
1.2.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với báo chí 24
1.2.1.2. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí 26
1.2.2. Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với báo chí. 29
1.2.3. Cơ quan quản lý Nhà nước đối với báo chí 31
1.2.4. Nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí. 35
1.2.5. Ý nghĩa của việc quản lý Nhà nước đối với báo chí 37
1.2.6. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở một số quốc gia 37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ 43
2.1. Khái quát về tình hình báo chí Việt Nam hiện nay 43
2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước đối báo chí 48
2.2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý Nhà nước đối với báo chí 48
2.2.2. Về thực tiễn quản lý. 60
2.2.2.1. Công tác xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phát triển báo chí 61
2.2.2.2. Công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện, áp dụng các văn bản qui phạm pháp luật về báo chí 62
2.2.2.3. Công tác quản lý, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ đối với cán bộ báo chí và việc thực hiện chức năng của cơ quan chủ quản 64
2.2.2.4. Công tác quản lý hợp tác, việc liên doanh, liên kết và kinh doanh của cơ quan báo chí. 65
2.2.2.5. Vấn đề cung cấp thông tin và trả lời trên báo chí 66
2.2.2.6. Thanh tra, kiểm tra, khen thưởng trong hoạt động báo chí 69
2.3. Nguyên nhân của thực trạng quản lý Nhà nước đối với báo chí. 71
2.3.1. Nguyên nhân khách quan 71
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan. 72
2.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí 73
2.4.1. Những cơ hội, thách thức đối với báo chí Việt Nam hiện nay và nhu cầu hoàn thiện về quản lý Nhà nước. 73
2.4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí. 74
2.4.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý Nhà nước đối với báo chí. 74
2.4.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn quản lý Nhà nước đối với báo chí. 79
KẾT LUẬN 83
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37414/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ặc lấy từ các cơ quan chính quyền địa phương hay trung ương. Các cơ quan này có nghĩa vụ phải cho bất kỳ ai muốn có thông tin về việc xử lý một vấn đề nào đó được xem tài liệu của cơ quan đó). Rõ ràng là quyền tiếp cận tài liệu đã tạo cơ hội tốt cho các phương tiện thông tin kiểm tra xem xét các chính sách và nhân viên Nhà nước sử dụng quyền hạn của họ như thế nào.
Nguyên tắc cơ bản đằng sau Luật Tự do báo chí Thụy Điển là báo chí phải được hưởng quyền tự do ở mức cao nhất có thể được nhằm thực hiện chức năng kiểm soát của nó trong xã hội.
Tại Thụy Điển, các tổ chức báo chí đã thỏa thuận với nhau về các nguyên tắc cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhằm đạt một trong những mục đích là giảm đến mức tối thiểu nhu cầu phải viện đến pháp luật. Bản Quy ước đạo đức nhà báo đã được Câu lạc bộ Các nhà báo thông qua lần đầu tiên năm 1923 và bản Quy ước hiện nay được thông qua năm 1997. Bản quy ước nhằm duy trì những tiêu chuẩn đạo đức cao cả nói chung, đặc biệt nhằm bảo về sự toàn vẹn của cá nhân chống lại việc xâm phạm vào đời sống riêng tư, bôi nhọ hay tuyên truyền gây tổn thương khác. Một phần đặc biệt dành để chống lại việc quảng cáo trên báo và những tác động thái quá từ bên ngoài nhằm đánh lừa độc giả. Có một ủy ban đặc biệt theo dõi loại hành động phi pháp này.
Văn phòng Thanh tra Báo chí Đại chúng (PO) giám sát việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức. Những đơn khiếu nại được chuyển đến cho Thanh tra báo chí là người cũng có quyền hành động theo sáng kiến riêng của mình. PO có thể bác bỏ một đơn khiếu nại nếu xét thấy không có căn cứ hay nếu tờ báo đồng ý đăng lời hủy bỏ hay cải chính mà được người khiếu nại chấp nhận.
Khi PO xét thấy lời kêu ca phàn nàn có tính chất nghiêm trọng hơn, thì đơn khiếu nại sẽ được gửi đến Hội đồng Báo chí; hội đồng sau đó sẽ ra tuyên bố miễn khiển trách hay khiển trách tờ báo. Tuyên bố khiển trách của hội đồng được đăng trên tờ báo có liên quan và trên các tập san chuyên ngành của báo chí. Ngoài việc đăng ý kiến khiển trách, tờ báo phạm lỗi còn phải trả một khoản phí.
Hội đồng gồm 6 thành viên, hai vị đại diện, cho công chúng nói chung, 3 vị do các tổ chức báo chí cử ra, còn vị thứ 6 là chủ tịch hội đồng có lá phiếu quyết định. Đến nay, vị này thường là một thành viên của Tòa án Tối cao.
Hội đồng Báo chí, Thanh tra báo chí và Bản Quy ước tạo thành một hệ thống hoàn toàn tự nguyện phi chính phủ và do giới báo chí quy định và đài thọ.
Mỹ:
Theo Hiến pháp nước Mỹ thì chính phủ không nắm hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng mà giao cho tư nhân để đảm bảo quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Tuy nhiên, các nhà báo hoạt động nghề nghiệp phải tuân theo quy tắc báo chí (do Hội các Chủ bút nước Mỹ quy định) và Quy tắc về Vô tuyến truyền hình (thông qua từ ngày 9-6-1958). Quy tắc Báo chí Mỹ thể hiện “lý thuyết trách nhiệm xã hội của báo chí” gồm 7 yêu cầu hoạt động nghề nghiệp là: 1. Trách nhiệm; 2. Tự do báo chí; 3. Sự độc lập; 4. Lòng thành, sự xác thực, đúng đắn; 5. Sự vô tư; 6. Sự bảo đảm tôn trọng thanh danh; 7. Giữ thuần phong mỹ tục.
Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ có tiểu ban về thông tin của Hạ viện để phân tích và kiểm tra các thông tin báo chí trong thời gian có các cuộc khủng hoảng. Ủy ban Liên bang về thông tin của Mỹ có chức năng không chỉ thuần túy điều phối về kỹ thuật. Nó được quyền 3 năm một lần cấp giấy phép hoạt động cho các đài phát thanh và truyền hình dựa trên những đánh giá về hoạt động của các đài này.
Năm 1917, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật về tội do thám và năm sau là đạo luật về tội bạo động. Theo các luật này, người bị coi là tội phạm nếu có ý thức viết và truyền đi “các phóng sự và ý kiến không đúng”, “cản trở hoạt động của các lực lượng vũ trang hay hỗ trợ của đối phương”. Theo Đạo luật về an ninh đối nội được thông qua năm 1959, Thượng viện Mỹ đã thành lập Ủy ban McCarthy - một cơ quan điều tra các hoạt động bị coi là chống Mỹ, trong đó có thông tin trên báo chí. Năm 1953, Bộ luật Hình sự của Mỹ được bổ sung thêm điều cho phép xử việc đăng các tài liệu mà chính phủ đánh giá là bí mật. Song song đó, liên quan đến nhân thân con người, nước Mỹ cũng rất thận trọng cho phép công bố khi liệt “quảng cáo lừa bịp”, “làm giả hàng hóa”, “không có khả năng thanh toán những cam kết tài chính” vào những loại thông tin bị đánh giá là phỉ báng.
Tại Mỹ, ngành bưu điện cũng có thẩm quyền nhỏ trong việc quyết định lưu hành báo chí đến công chúng khi năm 1918, Quốc hội Mỹ đã thông qua đạo luật cấm phổ biến bất kỳ loại ấn phẩm nào phê phán hình thức lãnh đạo của nước Mỹ cho phép bưu điện có thẩm quyền này.
Nhật Bản:
Chính phủ Nhật không có cơ quan chức năng quản lý báo chí nhưng Hiệp hội Báo chí Nhật Bản về phương diện nghề nghiệp lại phát huy chức năng giám sát. Hội đồng Báo chí quốc gia gồm 6 thành viên là những nhà báo uy tín có vai trò uốn nắn, rút kinh nghiệm nếu có tờ báo hay nhà báo nào vi phạm đạo đức nghề báo. Danh dự nhà báo là do chính nhà báo tự chịu trách nhiệm nếu bị kiện mà nhà báo thấy mình sai thì phải “tự xử”, tức là viết bài xin lỗi trên mặt báo, nghiêm trọng hơn thì từ chức hay chuyển nghề. Một trong những yêu cầu hàng đầu của phóng viên báo chí Nhật Bản là phải tôn trọng sự thật khách quan, nếu ai bịa tin giả có thể bị phạt, thậm chí còn bị tòa soạn đuổi việc.
Anh:
Chính phủ Anh ban hành một đạo luật đóng thành tập dày đến 960 trang, gồm 67 điều và dẫn ra 3.980 trường hợp áp công cụ thể hạn chế quyền tự do báo chí trong phạm vi nhất định. Theo đó, những bài báo làm tổn hại thanh danh về nghề nghiệp cá nhân thuộc loại thứ nhất bị hạn chế. Khi làm tổn hại đến các chính sách và các cơ quan Nhà nước, đến luật pháp và tôn giáo, đạo đức bị coi thuộc loại thứ hai bị hạn chế.
Báo chí cũng bị cấm bình luận về công việc của tòa án khi chưa kết thúc bản án, cũng như về việc chống án khi chưa có trả lời của toàn án cấp trên. Những tài liệu công bố trước khi khởi tố vụ án mà ảnh hưởng đến tòa án và cản trở công việc của toà án cũng bị trừng phạt. Báo chí phải thông báo nguồn cung cấp thông tin cho tòa biết và bị cấm đăng ảnh hay phát thanh và truyền hình trực tiếp từ phòng xử án.
Đặc biệt, báo chí phải chấp hành những đạo luật liên quan đến bí mật quốc gia. Nước Anh đã ban hành các đạo luật về bảo vệ bí mật quốc gia vào các năm 1889, 1911, 1920, 1939. Theo luật năm 1911, bức ảnh hay bài viết nào về đề tài quân sự có thể bị đối phương sử dụng đều bị coi là phạm tội. Trên thực tế, đạo luật này còn được áp dụng vào cả các đề tài liên quan đến quan hệ quốc tế, ngân hàng, hoạt động của chính phủ.
Cùng với hạn chế quyền công bố thông tin, các đạo luật về bảo vệ an ninh cũng hạn chế quyền nhận thông tin. Các đạo luật này hạn chế cả quyền thu nhận và phổ biến thông tin về những vấn đề...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status