Tiểu luận Bàn về quyền người đại diện của đương sự qui định tại điều 243 bộ luật tố tụng dân sự - pdf 13

Download Tiểu luận Bàn về quyền người thay mặt của đương sự qui định tại điều 243 bộ luật tố tụng dân sự miễn phí



Theo quy định pháp luật, khi một người có quyền thì họ có thể tự mình hay uỷ quyền cho người khác thay mình thực hiện quyền đó. Ví dụ quyền khởi kiện (Điều 4, Điều 161); Quyền tự định đoạt (Điều 5); Quyền bảo vệ (Điều 9) và quyền kháng cáo. Như vậy, quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự “ người thay mặt đương sự, có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”, được hiểu không chỉ đương sự, mà cả người thay mặt ( thay mặt theo pháp luật và thay mặt được uỷ quyền) của đương sự được quyền tự mình hay nhờ người khác làm đơn kháng cáo bản án, quyết định của tòa án và thực tế đã gặp những trường hợp như vậy.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37386/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

BÀN VỀ “QUYỀN NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ” QUI ĐỊNH TẠI ĐIỀU 243 BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Posted on 24/02/2010 by Civillawinfor
TS. NGUYỄN VĂN DŨNG – Học Viện Tư Pháp
Chế định “đại diện” được quy định tại nhiều điều luật, tương đối đầy đủ và chi tiết trong Bộ luật dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự. Theo những quy định này, trong quan hệ dân sự và tố tụng dân sự có “người thay mặt theo pháp luật” và “người thay mặt theo ủy quyền”- được gọi chung là người thay mặt hay người thay mặt hợp pháp. Quyền và nghĩa vụ của người “ thay mặt theo pháp luật” và “ thay mặt theo ủy quyền” không phải trong mọi trường hợp đều như nhau và giống nhau. Khi đặt trong tổng thể chung, có những quy định pháp luật gây nhầm lẫn hay gây tranh luận về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng. Quy định: “người thay mặt của đương sự” tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự là một quy định như vậy.
Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “Đương sự, người thay mặt của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.” Theo quy định này, có 3 đối tượng được quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm bao gồm, Đương sự; Người thay mặt của đương sự; Cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án. Với hai đối tượng: đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo là chính xác, đúng quy định pháp luật và không cần bàn cãi. Bài viết này bàn về quy định người thay mặt của đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của toà án…
1. Những quy định của pháp luật về thay mặt và về ủy quyền
a. Quy định pháp luật về đại diện.
Điều 139 Chương VII Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“ Điều 139. Đại diện.
1. Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
2…..
3. Quan hệ thay mặt được xác lập theo pháp luật hay theo uỷ quyền.”.
Theo quy định này, người thay mặt luôn nhân danh (người khác) và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
Tiếp đó các điều 140; 141; 142 và 143 quy định cụ thể về thay mặt theo pháp luật và thay mặt theo uỷ quyền. Theo đó người thay mặt theo pháp luật là thay mặt do pháp luật quy định hay do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (Điều 140). Cụ thể, người thay mặt theo pháp luật bao gồm: Cha mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ; Người được Toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của Điều lệ pháp nhân hay quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác và những người khác theo quy định của pháp luật (Điều 141). Người thay mặt theo uỷ quyền là người thay mặt được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người thay mặt và người được thay mặt (Điều 142)…và việc thay mặt theo uỷ quyền phải theo đúng quy định pháp luật về uỷ quyền.
Các điều từ Điều 73 đến Điều 78 Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng quy định chi tiết, cụ thể về đại diện. Theo những quy định này, người thay mặt trong tố tụng dân sự bao gồm người thay mặt theo pháp luật và người thay mặt theo uỷ quyền; người thay mặt theo pháp luật và người thay mặt theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người thay mặt theo pháp luật và người thay mặt theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền thay mặt và trường hợp không được uỷ quyền theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, Điều 74 quy định: “Người thay mặt theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự mà mình đại diện. Người thay mặt theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”
b. Quy định pháp luật về ủy quyền.
Hợp đồng uỷ quyền được quy định tại Mục 12 Chương XVIII Phần thứ ba Bộ luật dân sự.
“ Điều 581. Hợp đồng uỷ quyền.
Hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hay pháp luật có quy định.”.
Với những quy định của pháp luật về thay mặt thì dù có được uỷ quyền và trong phạm vi uỷ quyền nhưng người được uỷ quyền phải nhân danh người uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của chính người uỷ quyền.
2. Về quy định “ quyền người thay mặt đương sự”tại Điều 243 Bộ luật Tố tụng dân sự
Theo quy định pháp luật, khi một người có quyền thì họ có thể tự mình hay uỷ quyền cho người khác thay mình thực hiện quyền đó. Ví dụ quyền khởi kiện (Điều 4, Điều 161); Quyền tự định đoạt (Điều 5); Quyền bảo vệ (Điều 9)…và quyền kháng cáo. Như vậy, quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự “ …người thay mặt đương sự,… có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”, được hiểu không chỉ đương sự, mà cả người thay mặt ( thay mặt theo pháp luật và thay mặt được uỷ quyền) của đương sự được quyền tự mình hay nhờ người khác làm đơn kháng cáo bản án, quyết định của tòa án và thực tế đã gặp những trường hợp như vậy.
Thực tiễn xét xử tuy chưa gặp trường hợp người thay mặt (theo uỷ quyền) uỷ quyền cho người khác viết đơn kháng cáo, nhưng đã có trường hợp luật sư tham gia tố tụng với tư cách người thay mặt (theo uỷ quyền) đã nhân danh luật sư, nhân danh cá nhân làm đơn kháng cáo bản án của toà án. Cụ thể có đơn kháng cáo đã viết:
“ …
Đơn kháng cáo
Kính gửi: Tòa án nhân dân…..
Tôi: Nguyễn M.D, Luật sư thuộc Đoàn luật sư Hà Nội, tui làm đơn này kháng cáo bản án sơ thẩm số…/DSST ngày …tháng …năm 2005 của Tòa án nhân dân…

Hà Nội, ngày… tháng….năm 2005.
Người kháng cáo
(ký tên)
Luật sư. Nguyễn M.D”.
Trao đổi về đơn kháng cáo này có hai quan điểm được nêu ra.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, đơn kháng cáo của Luật sư nhân danh cá nhân là đúng theo quy định tại điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự vì luật sư là người thay mặt cho đương sự và có quyền kháng cáo. Khi một người có quyền thì họ được nhân danh cá nhân mình làm đơn kháng cáo. Trong trường hợp này, Luật sư đã làm đúng và trong phạm vi pháp luật cho phép.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng, vì Luật sư tha...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status