Tiểu luận Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước - pdf 13

Download Tiểu luận Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước miễn phí



Kế thừa và phát huy những quan điểm khác nhau của tư tưởng phân chia quyền lực trong những giai đoạn trước, ngày nay, người ta không chỉ phân chia quyền lực nhà nước theo chiều ngang mà còn có sự phân lập các quyền lực theo chiều dọc.
a) Phân quyền ngang
Đây là cách thức phân quyền khá phổ biến, được thể hiện khá rõ trong tư tưởng phân quyền của Aristote, Montesquieu, Rousseau.
Các đặc điểm chính của hình thức phân quyền ngang có thể kể đến như: quyền lực nhà nước được phân chia thành ba bộ phận: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp do ba cơ quan khác nhau đảm nhận; sự tồn tại tương đối độc lập trong việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan; các cơ quan quyền lực kiểm tra, giám sát lẫn nhau để tránh tình trạng chuyên quyền.
Tuy nhiên, ở nhiều nhà nước hiện nay, tư tưởng phân quyền ngang có một số thay đổi, chủ yếu ở số nhánh quyền lực phân chia ra từ quyền lực nhà nước. Cụ thể hơn, quyền lực nhà nước ở những nước này được phân chia thành 4,5 hay 6 bộ phận. Ví dụ: ở một số nước Mỹ La tinh, ngoài các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp còn có quyền lực thứ tư là quyền bầu cử.
Việc áp dụng tư tưởng phân quyền ngang được thể hiện ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào hình thức chính thể của nhà nước. Đối với chính thể cộng hòa tổng thống như Mỹ, tư tưởng phân quyền ngang được áp dụng một cách cứng rắn, triệt để; đối với chính thể cộng hòa đại nghị như Anh, tư tưởng phân quyền ngang được áp dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo,.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37411/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỞ ĐẦU
Tư tưởng phân chia quyền lực là cơ sở hình thành nên nguyên tắc phân quyền - nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là của những nước tư sản. Phân quyền như là một đòi hỏi của dân chủ, một nội dung chính của Hiến pháp. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, với công cuộc đổi mới, mở cửa, và nhất là với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, việc tiếp thu và áp dụng những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng phân chia quyền lực, hay đúng hơn là học thuyết phân quyền của Montesquieu đã được chúng ta ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001. Điều 2 của Hiến pháp quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.".
PHẦN I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC.
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước có mầm mống xuất hiện từ rất lâu và đạt đến mức độ hoàn thiện nhất khi được Montesquieu nâng lên thành học thuyết phân quyền được giai cấp tư sản áp dụng rộng rãi. Việc áp dụng tư tưởng phân quyền vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có tác động tích cực trong việc chống nạn độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước.
Học thuyết phân chia quyền lực (học thuyết phân quyền) gắn liền với tên tuổi của John Locke, Montesquieu, đặc biệt là Montesquieu. Tuy nhiên, mầm mống của tư tưởng phân quyền đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội sơ khai đầu tiên của nhân loại.
Tư tưởng phân chia quyền lực trong thời kỳ cổ đại.
Tư tưởng phân chia quyền lực lần đầu tiên được xuất hiện trong tác phẩm Politics (Chính trị) của Aristote (384 - 322 TCN). Trong tác phẩm của mình, ông cho rằng nhà nước nào được tổ chức quy củ, đảm bảo công bằng trong dân chúng thì nhà nước đó phải có ba bộ phận: bộ phận tư vấn pháp lý về hoạt động của nhà nước làm ra luật và có trách nhiệm trông coi việc nước, bộ phận các tòa thị chính có chức năng chăm lo từng việc cụ thể trong nhà nước như quản lý thị trường, đất đai,... và bộ phận các cơ quan tư pháp được chia thành nhiều loại tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm của ác vụ việc cần giải quyết.
Aristote là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng phân chia quyền lực, quan điểm của ông mới chỉ dừng lại ở mức sơ khai khi mô tả bộ máy nhà nước mà chưa chỉ ra nguyên nhân phải phân chia quyền lực nhà nước, cũng như chưa đi sâu phân tích mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước.
Sau Aristote là Polybe và Ciceron cũng thể hiện tư tưởng phân chia quyền lực. Theo Polybe, một nhà nước được tổ chức một cách hợp lý là nhà nước hỗn hợp của ba chính quyền: chính quyền quốc vương, chính quyền quý tộc và chính quyền nhân dân tương ứng với ba thứ quyền lực: quyền hành pháp, quyền lập pháp và quyền tư pháp. Bên cạnh đó, ông cũng chỉ ra được cách thức thực hiện quyền lực, mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa các cơ quan nhà nước. Ciceron cũng ủng hộ hình thức nhà nước có sự cân bằng trong việc phân chia quyền lực.
Có thể thấy, tư tưởng phân chia quyền lực thời kì này không chỉ dừng lại ở những quan điểm mà đã được thể hiện khá rõ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mà tiêu biểu là nhà nước La Mã, nhà nước Athene. Đặc biệt, bộ máy nhà nước La Mã đã có sự phân chia quyền lực nhà nước thành ba thứ quyền lực khác nhau là lập pháp, hành pháp và tư pháp do ba cơ quan nhà nước khác nhau đảm nhiệm; giữa các cơ quan đã có những mối quan hệ nhất định, có sự tác động qua lại lẫn nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Tư tưởng phân chia quyền lực trong thời kỳ cách mạng tư sản.
Tư tưởng phân chia quyền lực trong thời kỳ phong kiến hầu như bị lãng quên do hầu hết các nhà nước lúc bấy giờ đều theo chính thể quân chủ chuyên chế. Chính hình thức chính thể này đã chi phối tới việc áp dụng nguyên tắc tập quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thay vì chú trọng đến nguyên tắc phân quyền.
Tuy nhiên, từ khi cách mạng tư sản thành công, giai cấp tư sản lên cầm quyền thì nhà nước và pháp luật theo chế độ phong kiến buộc phải thay đổi để thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh mới. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán khi quyền lực nhà nước chỉ tập trung trong tay một hay một nhóm người, làm sao để bảo đảm quyền tự do, bình đẳng của mọi cá nhân trong xã hội...? Trước tình trạng đó, tư tưởng phân chia quyền lực một lần nữa đã chứng minh được những giá trị có ý nghĩa lớn lao của mình.
Tư tưởng phân chia quyền lực của John Locke (1632 - 1704)
Tư tưởng phân quyền được John Locke thể hiện rất rõ trong phần hai của Hai khảo luận về chính quyền - một trong những tác phẩm kinh điển về triết học chính trị và chính trị học nhân loại.
Trong hệ thống quan điểm về tư tưởng phân chia quyền lực của Locke, ta có thể nhận thấy ông đã đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp. Cơ quan lập pháp là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật.
Bên cạnh đó, Locke cũng chỉ ra những ranh giới mà cơ quan lập pháp không được phép vượt qua như nó không thể là quyền lực chuyên chế, độc đoán đặt trên cuộc sống và vận mệnh của nhân dân, không được trao quyền lập pháp cho một ai khác,...
Về cách thức thành lập cơ quan lập pháp, Locke đưa ra mô hình cơ quan lập pháp là tập hợp của những người khác nhau trong một thời gian nhất định để làm luật, và khi hết nhiệm kỳ, họ sẽ lại trở thành những thành viên của cộng đồng và chịu sự chi phối của những luật mình làm ra.
Cơ quan hành pháp được thành lập do yêu cầu cần có một cơ quan thường trực thực hiện và quản lý những công việc chung trong khi cơ quan lập pháp không nên tồn tại một cách thường xuyên. Nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu của cơ quan hành pháp là thực hiện cũng như giám sát sự thực hiện các đạo luật đã được cơ quan hành pháp ban hành. Ngoài ra, cơ quan hành pháp còn có đặc quyền hành động nhất định. Đặc quyền đó được thể hiện khi có những vấn đề xã hội mới nảy sinh mà cơ quan lập pháp chưa kịp ban hành những điều luật để điều chỉnh thì cơ quan hành pháp có toàn quyền quyết định hướng giải quyết nhưng vẫn phải đặt lợi ích của cộng đồng lên hàng đầu. Vì cơ quan hành pháp do cơ quan lập pháp thành lập và chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp nên cơ quan lập pháp có quyền bãi bỏ cơ quan hành pháp.
Tồn tại bên cạnh quyền lập pháp và quyền hành pháp là quyền liên hiệp. Quyền liên hiệp là sự bảo đảm an ninh và lợi ích của cá nhân cũng như toàn thể cộng đồng trong mối liên quan bên ngoài với các cá nhân và cộng đồng khác. Tuy quyền hành pháp và quyền liên hiệp là ha...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status