Giải pháp thực hiện thoả ước lao động tập thể ngành - pdf 13

Download Giải pháp thực hiện thoả ước lao động tập thể ngành miễn phí



Hiện tại, Nhà nước có quy định về phân ngành kinh tế quốc dân, với 5 cấp ngành, từ cấp I đến cấp V. Việc phân ngành này để xác định quy mô, cơ cấu nền kinh tế quốc dân và phục vụ cho công tác thống kê, kế hoạch, thông tin kinh tế của các cấp, các ngành trong cả nước. Trong mỗi ngành, về cơ bản bao gồm đa số các doanh nghiệp có cùng chung tính chất, lĩnh vực, ngành nghề hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhưng giữa các doanh nghiệp này lại chưa thiết lập được tổ chức thay mặt tập thể người lao động chung (công đoàn cấp ngành) và chưa có chung hiệp hội giới chủ hay có nhưng không bao trùm hết các doanh nghiệp, hay không đồng bộ giữa số doanh nghiệp tham gia hiệp hội giới chủ và số doanh nghiệp tham gia cùng tổ chức công đoàn, nên chưa thể thực hiện việc ký kết thoả ước lao động tập thể theo phân ngành kinh tế này. Mặt khác, hiện Nhà nước cũng đang khuyến khích các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh đa ngành, đa nghề nên việc phân loại doanh nghiệp theo ngành để ký kết thoả ước cũng gặp nhiều khó khăn.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37797/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Giải pháp thực hiện thoả ước lao động tập thể ngành
Bộ luật Lao động (năm 1994) đã xây dựng một chương riêng về thoả ước lao động tập thể, đồng thời Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 196/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về thoả ước lao động tập thể và Nghị định số 93/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 196/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ.
Bộ luật Lao động (năm 1994) đã xây dựng một chương riêng về thoả ước lao động tập thể, đồng thời Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 196/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về thoả ước lao động tập thể và Nghị định số 93/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 196/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ.
Do chức năng động và đa dạng của các quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường nên một số quy định của pháp luật - qua thực tiễn áp dụng - đã dần bộc lộ một số hạn chế: hay là chưa sát với thực tế, hay là chưa được giải thích, hướng dẫn cụ thể, đặc biệt là quy định và hướng dẫn thực hiện việc ký kết thỏa ước lao động tập thể cấp ngành. Điều này gây ra những khó khăn cho các bên chủ thể của quan hệ lao động trong quá trình áp dụng pháp luật về thương lượng, ký kết thoả ước.
Quốc hội khoá X tại kỳ họp thứ 11 (năm 2006) đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động năm 1994, trong đó có những sửa đổi, bổ sung các quy định về thoả ước lao động tập thể cho phù hợp với thực tế và mang tính khả thi cao hơn. Tuy vậy, quy định của pháp luật lao động về thoả ước lao động tập thể ngành đến nay vẫn chưa có quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện. Chính vì vậy, vẫn cần tiếp tục việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về thoả ước lao động tập thể.
Thương lượng tập thể ở cấp doanh nghiệp để đi tới ký kết thỏa ước lao động tập thể ở doanh nghiệp là hình thái đơn giản nhất, ở Việt Nam cũng mới chỉ có loại này. Tuy nhiên, thương lượng tập thể ở cấp doanh nghiệp cũng có điều bất lợi, nó có thể dẫn tới sự khác nhau trong thu nhập của công nhân làm cùng một nghề, cùng một vùng, khu vực trong các doanh nghiệp khác nhau, công nhân trong các doanh nghiệp nhỏ không đủ sức sức đấu tranh để có được đồng lương hợp lý. Vì vậy, ký kết thỏa ước lao động tập thể ở cấp ngành, vùng có sẽ giúp thu hẹp khoảng cách này. ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước phát triển, thương lượng tập thể diễn ra ở nhiều cấp khác nhau, như cấp quốc gia, cấp vùng, cấp ngành, cấp liên ngành... Kinh nghiệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy, để thị trường lao động phát triển lành mạnh, phát huy được vai trò tích cực của các bên trong quan hệ lao động, hạn chế các tranh chấp lao động, đình công xảy ra, thì thoả ước lao động tập thể ngành có vai trò hết sức quan trọng. Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản... đều đã triển khai ký kết thoả ước lao động tập thể ngành từ rất sớm, một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia... gần đây cũng triển khai ký kết thoả ước lao động tập thể ngành và thu được kết quả khả quan. Vì vậy, để từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc, hạn chế các tranh chấp lao động phát sinh thì việc tổ chức ký kết thoả ước lao động tập thể trong phạm vi ngành, trước hết là đối với một số ngành ở nước ta trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết.
Điều 54 Bộ luật Lao động có quy định: “Những quy định tại chương Thoả ước lao động tập thể được áp dụng cho việc thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể ngành”. Tuy nhiên, Nghị định số 196/CP ngày 31/12/1994 và Nghị định số 93/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động về thoả ước lao động tập thể lại không có các quy định về vấn đề này và cho đến nay, cũng chưa có văn bản riêng nào quy định về thoả ước lao động tập thể ngành. Trên thực tế, việc ký kết thoả ước lao động tập thể ngành chưa được triển khai thực hiện, chưa có ngành nào ký kết thoả ước lao động tập thể. Bởi vậy, mối quan hệ lao động giữa các doanh nghiệp trong ngành vẫn chưa được thiết lập thống nhất, chế độ lao động trong các doanh nghiệp trong ngành còn khác nhau, nên đây có lẽ cũng là nguyên nhân dẫn đến việc phát sinh các tranh chấp lao động tập thể. 
Tuy Điều 54 Bộ luật Lao động cũng đã có quy định về việc áp dụng các quy định về việc ký kết thoả ước lao động tập thể trong doanh nghiệp để thương lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể ngành, nhưng thực tế không thể áp dụng được bởi thoả ước lao động tập thể ngành có nhiều điểm khác biệt với thoả ước lao động tập thể doanh nghiệp như về chủ thể tham gia ký kết (cấp ngành đòi hỏi là công đoàn ngành và giới chủ theo ngành), nội dung ký kết (cấp ngành yêu cầu nội dung phải phù hợp trong toàn ngành), điều kiện về tỷ lệ lấy ý kiến người lao động (doanh nghiệp quy định trên 50% lao động nhưng với cấp ngành chưa có quy định), cấp đăng ký thoả ước (doanh nghiệp quy định đăng ký với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, cấp ngành chưa có quy định), phạm vi áp dụng thoả ước.
Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc chưa ký kết thoả ước lao động tập thể ngành ở nước ta là do chúng ta chưa có các quy định về phân ngành rõ ràng và chưa xây dựng được hiệp hội giới chủ sử dụng lao động, tổ chức công đoàn đồng bộ theo ngành, làm cơ sở để ký kết thoả ước lao động tập thể ngành.
 Hiện tại, Nhà nước có quy định về phân ngành kinh tế quốc dân, với 5 cấp ngành, từ cấp I đến cấp V. Việc phân ngành này để xác định quy mô, cơ cấu nền kinh tế quốc dân và phục vụ cho công tác thống kê, kế hoạch, thông tin kinh tế của các cấp, các ngành trong cả nước. Trong mỗi ngành, về cơ bản bao gồm đa số các doanh nghiệp có cùng chung tính chất, lĩnh vực, ngành nghề hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhưng giữa các doanh nghiệp này lại chưa thiết lập được tổ chức thay mặt tập thể người lao động chung (công đoàn cấp ngành) và chưa có chung hiệp hội giới chủ hay có nhưng không bao trùm hết các doanh nghiệp, hay không đồng bộ giữa số doanh nghiệp tham gia hiệp hội giới chủ và số doanh nghiệp tham gia cùng tổ chức công đoàn, nên chưa thể thực hiện việc ký kết thoả ước lao động tập thể theo phân ngành kinh tế này. Mặt khác, hiện Nhà nước cũng đang khuyến khích các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh đa ngành, đa nghề nên việc phân loại doanh nghiệp theo ngành để ký kết thoả ước cũng gặp nhiều khó khăn.
Chính vì vậy, để có thể triển khai việc ký kết thoả ước ngành, chúng ta cần có những tiêu chí để phân loại ngành một cách rõ ràng, đồng thời có những quy định cụ thể về việc thương lượng ký kết thoả ước ngành.
Để có thể thực hiện ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status