Quyền dự họp đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ công ty cổ phần hiện nay - pdf 13

Download Quyền dự họp đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ công ty cổ phần hiện nay miễn phí



Quyền của cổ đông nhỏ hiện nay chưa được quan tâm, hay đôi khi bị vi phạm nhưng luật không quy định quyền cổ đông trực tiếp khởi kiện HĐQT – cơ quan triệu tập Đại hội cổ đông, nếu xét thấy cần thiết; cũng không quy định quyền của cổ đông yêu cầu Toà án xem xét miễn nhiệm thành viên HĐQT hay BKS trong trường hợp cần thiết. Luật hiện hành chỉ dành cho cổ đông phổ thông có 2 quyền tư pháp liên quan là: (1) có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty10; và (2) quyền yêu cầu Toà án hay Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trong một số trường hợp11. Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật DN quy định chỉ mang tính chung chung, chưa cụ thể. Hoạt động của doanh nghiệp rất nhiều và phức tạp, có bao gồm hoạt động triệu tập tham gia Đại hội cổ đông không? Quy định như vậy dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn, trở ngại cho các cổ đông nhỏ khi thực hiện quyền khởi kiện, khiếu nại.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37763/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Quyền dự họp đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ công ty cổ phần hiện nay 
Hiện nay, cổ đông có tỷ lệ vốn góp cổ phần nhỏ trong công ty cổ phần (CTCP) chiếm số lượng rất lớn, đặc biệt là từ khi xuất hiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Song song với mức phát triển về số lượng của cổ đông nhỏ là sự vi phạm quyền lợi của họ trong CTCP, trong đó quan trọng là quyền dự họp Đại hội cổ đông. Thông qua thực tiễn đã xảy ra tại các CTCP hiện nay, chúng tui mong muốn sẽ có những phân tích và đánh giá đem lại tính khách quan khi xem xét vấn đề này.
1. Cổ đông nhỏ là ai?
Cổ đông là những người góp vốn vào công ty. Muốn trở thành cổ đông CTCP, cá nhân hay tổ chức hay góp vốn thành lập công ty hay mua cổ phần từ cổ đông khác. Cổ đông có nhiều loại, tùy từng tiêu chí mà chúng ta có các loại cổ đông khác nhau. Dựa vào khối lượng vốn góp, chúng ta có cổ đông nhỏ và cổ đông lớn1. Việc xác định cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn không có ý nghĩa khi góp vốn, mà chỉ có ý nghĩa khi các cổ đông thực hiện quyền, nghĩa vụ.
 Luật Doanh nghiệp 2005 (Luật DN) xác định cổ đông hay nhóm cổ đông sở hữu 10% tổng số cổ phần trở lên sẽ có thêm một số quyền khác so với cổ đông phổ thông2. Đồng thời, Luật DN cũng quy định mức cổ đông sở hữu 5% tổng số vốn điều lệ có thể tham gia Hội đồng quản trị3 và mức này cũng là cơ sở để cổ đông phải đăng ký/báo cáo với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền kể từ ngày có được tỷ lệ sở hữu đó4.
 Luật Chứng khoán 2007 quy định: Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hay gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành5. Theo quy định của luật này, cổ đông nhỏ là cổ đông sở hữu dưới 5% tổng số cổ phần của công ty.
Như vậy, ở đây có sự chênh nhau giữa quy định của Luật DN và Luật Chứng khoán. Nhưng xét về mặt thời gian ban hành luật và tính hợp lý, chúng ta thấy tỷ lệ sở hữu 5% tổng số cổ phần là mốc hợp lý để xác định cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn. Luật DN định tỷ lệ cổ phần sở hữu 10% (1/10 vốn điều lệ) là khá lớn, ngay cả tỷ lệ cổ phần sở hữu 5% (1/20 vốn điều lệ) theo Luật Chứng khoán cũng không phải nhỏ trong CTCP, đặc biệt là các công ty đại chúng. Bởi chúng ta thấy, các CTCP hiện nay vốn điều lệ rất lớn. Ví dụ: tỷ lệ sở hữu 0,1% cổ phần trong công ty PVFC Land đã là 500 triệu đồng và tỷ lệ 5% sẽ phải rất lớn; tỷ lệ 5% của CTCP nhựa Bình Minh là hơn 7 tỷ đồng…
Do vậy, chúng ta chấp nhận cổ đông nhỏ là cổ đông sở hữu tỷ lệ vốn góp dưới 5% tổng số cổ phần của CTCP mà cổ đông là thành viên.
Luật DN quy định quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông và một số đặc thù của những cổ đông hay nhóm cổ đông phổ thông có tỷ lệ vốn góp trên 10%. Luật không quy định cổ đông phổ thông nắm giữ bao nhiêu phần trăm tổng số cổ phần mà tất cả các cổ đông không thuộc các cổ đông ưu đãi là cổ đông phổ thông có quyền biểu quyết. Do vậy, cổ đông phổ thông sẽ bao gồm cả cổ đông nhỏ và cổ đông lớn. Các quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông là như nhau, bất kể họ là cổ đông nhỏ hay lớn.
Việc xác định cổ đông nhỏ và cổ đông lớn có ý nghĩa pháp lý rất to lớn để thực hiện và bảo vệ quyền của cổ đông nhỏ trong CTCP thông qua hình thức dự họp và tham gia biểu quyết tại Đại hội cổ đông.
2. Thực trạng quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ trong CTCP hiện nay
Tuy pháp luật đã quy định quyền dự họp Đại hội cổ đông của các cổ đông nhỏ cụ thể và chi tiết, nhưng việc thực hiện và đảm bảo thực hiện trên thực tế chưa được nghiêm chỉnh. Những điều tưởng chừng như vô lý, thiếu công bằng đã và đang diễn ra, bất chấp những quy định pháp luật và nỗi bức xúc của cổ đông nhỏ, trở thành những vấn đề nổi cộm hiện nay.
Điều 78, Điều 101 Luật DN quy định: Cổ đông phổ thông có quyền tham gia và phát biểu trong các Đại hội cổ đông…; mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết;
Pháp luật quy định minh thị như vậy nhưng không ít CTCP đưa ra các yêu sách bắt buộc cổ đông phải có tỷ lệ sở hữu số cổ phần tối thiểu mới được tham gia Đại hội cổ đông. Chẳng hạn như PVFC Land yêu cầu phải sở hữu từ 0,1% vốn điều lệ trở lên (tương đương khoảng 500 triệu đồng) mới được tham dự. Một số đơn vị khác cũng yêu cầu cổ đông phải sở hữu tối thiểu hàng trăm triệu đồng mệnh giá cổ phiếu mới được tham gia Đại hội cổ đông thường niên như CTCP Dược phẩm TW2 (hơn 5.000 cổ phần), Licogi 18 (hơn 15.000 cổ phần), Lilama 18 (hơn 35.000 cổ phần), CTCP Đầu tư PV-Inconess (hơn 100.000 cổ phần, tương đương gần 1 tỷ đồng), Công ty Bia Thanh Hóa (hơn 5.000 cổ phần), CTCP Thương mại Bia Hà Nội (hơn 20.000 cổ phần) . Trường hợp gần đây nhất là CTCP Chế biến Xuất khẩu Thuỷ sản Minh Hải yêu cầu điều kiện tham gia Đại hội cổ đông phải sở hữu từ 5.000 cổ phần trở lên, các cổ đông sở hữu dưới 5.000 cổ phần phải tập hợp lại cử thay mặt tham dự6.
Các cổ đông nhỏ bị hạn chế họp Đại hội cổ đông “đương nhiên” bị tước đi quyền cao quý nhất của cổ đông là quyết định một số nội dung Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Dẫu biết rằng quyền tham gia đại hội cổ đông không đồng nhất với quyền biểu quyết có tính chất quyết định. Biểu quyết thông qua có tính chất quyết định dựa trên tỷ lệ cổ phần vốn góp. Nhưng đó là quyền theo quy định của pháp luật mà Hội đồng quản trị phải thực hiện, để họ thấy mình cũng là thành viên công ty, thấy mình là chủ sở hữu. Dự họp Đại hội cổ đông họ có quyền được nắm bắt thông tin, có ý kiến, có các quyền khác… và biểu quyết góp phần hình thành quyết định trong công ty.
Cổ đông nhỏ bị hạn chế quyền tham gia đại hội cổ đông, đồng nghĩa với việc mất đi quyền tiếp cận, trao đổi, chất vấn ban lãnh đạo thì không thể đảm bảo tính khách quan, công bằng. Dự họp Đại hội cổ đông, chí ít cổ đông cũng được nghe báo cáo về hoạt động hiện tại, nói lên nguyện vọng của cổ đông; đồng thời, những người điều hành công ty sẽ nghe tâm tư nguyện vọng của những ông chủ để xây dựng kế hoạch hoạt động của công ty. Không được quyền dự họp diễn ra thường xuyên sẽ làm cho các nhà đầu tư mất lòng tin vào những quy định của pháp luật, ngán ngại khi có ý định đầu tư và dần dần làm cho nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Đồng tiền nhàn rỗi không được đầu tư để phát triển kinh tế là điều không một nhà điều hành tài chính nào mong muốn. Nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế.
Một hệ quả khác của việc không được dự họp Đại hội cổ đông là các cổ đông nhỏ không được chia xẻ ý kiến của mình đối với những người điều hành công ty. Đặc biệt liên quan đến việc chào bán cổ phần/cổ phiếu. Nếu các cổ đông nhỏ biết liên kết để hình thành nhóm cổ đông sở hữu đạt tỷ lệ 10% tổng số cổ phần, họ có quyền cử người vào Hội đồng quản trị. Có người là thành viên ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status