Các nguyên lý cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm tại hoa kỳ và một số quốc gia trên thế giới - pdf 13

Download Các nguyên lý cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm tại hoa kỳ và một số quốc gia trên thế giới miễn phí



EU đã có những cố gắng lớn trong việc điều chỉnh pháp luật quan hệ giữa người sản xuất, cung ứng với người tiêu dụng liên quan đến những thiệt hại do sử dụng sản phẩm gây ra. Các các nguyên lý cơ bản về trách nhiệm sản phẩm được thể hiện khá rõ trong Chỉ thị 85/374/EEC của Liên minh Châu Âu. Chỉ thị này được ban hành ngày 25 tháng 7 năm 1985 để hài hoà hoá các quy định bắt buộc trong lĩnh vực pháp luật và hành chính của các nước thành viên về trách nhiệm của các sản phẩm bị khiếm khuyết[8]. Chỉ thị này được ban hành trên cơ sở Hiệp ước về thành lập Cộng đồng Châu Âu, nhất là điều 100. Chỉ thị 85/374/EEC này đã được sửa đổi bởi Chỉ thị số 1999/34/EC do Nghị viện và Hội đồng Liên minh Châu Âu ban hành ngày 25 tháng 5 năm 1999[9]. Theo các Chỉ thị này, các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm đối với bất cứ thiệt hại nào do sản phẩm bị khiếm khuyết gây ra cho người tiêu dùng. Theo Chỉ thị năm 1985 nêu trên, nhà sản xuất cung ứng có nhiều cơ hội giải phóng trách nhiệm của mình thông qua các qui định: (1) Nghĩa vụ chứng minh; (2) Các trường hợp miễn trách nhiệm (sự phát triển của rủi ro,.); (3) Giới hạn trách nhiệm trần[10]. Theo đó, nguyên lý về trách nhiệm nghiêm ngặt cũng được áp dụng ở Liên minh Châu Âu, và do đó cũng thể hiện tính nghiêm khắc, sự phát triển của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của Hoa Kỳ lẫn Liên minh Châu Âu.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37935/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Trong Bộ pháp điển hóa chỉ có điều 402A gồm 2 mục quy định về khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do thiết kế. Trong khi đó, Luật mẫu có đến gồm 21 mục[2] đề cập đầy đủ hơn đến khuyết tật do sản xuất, khuyết tật do thiết kế, khuyết tật do thông báo và những hướng dẫn thi hành. Phiên bản hoàn chỉnh nhất của luật này được đưa ra công chúng ngày 6 tháng 5 năm 1998 dưới cả dạng bản cứng và bản mềm. Do có rất nhiều bang đã không chấp nhận nên Luật này vẫn chưa có được giá trị như Bộ luật Thương mại thống nhất (UCC). Tuy nhiên, nhiều qui định trong Luật mẫu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xét xử của các toà án Mỹ đối với các vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm. Những nguyê tắc này rất có ý nghĩa đối với những người khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do sử dụng sản phẩm có khiếm khuyết hay không an toàn. Như vậy có thể thấy, pháp luật liên bang của Mỹ chưa thể điều chỉnh thống nhất quan hệ về trách nhiệm sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều qui định trong các văn bản pháp luật liên bang về nghĩa vụ đảm bảo trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được áp dụng để xác định các khía cạnh khác nhau về trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà cung ứng đối với sản phẩm của mình khi chúng gây thiệt hại cho người tiêu dùng. 1.2. Các nguyên lý nền tảng của chế định trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ Trước đây, những thiệt hại mà người sử dụng sản phẩm phải gánh chịu không hề được bồi thường. Pháp luật các nước theo hệ thống Common Law xuất phát từ quan điểm cho rằng giữa người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm không có mối quan hệ nào nên việc bồi thường trong những trường hợp có thiệt hại xảy ra là không có cơ sở pháp lý. Giống như ở Anh, tại Mỹ, nơi thuyết “quan hệ mật thiết”[3] (in privity doctrine[4]) được coi như là một pháo đài bất khả xâm phạm được các bị đơn và các thẩm phán sử dụng để chống lại bên nguyên đơn trong các vụ việc liên quan đến bồi thường thiệt hại. Theo học thuyết này, giữa người bị thiệt hại với người bị buộc phải bồi thường phải có mối liên hệ nhất định nào đó, chẳng hạn như quan hệ hợp đồng. Xuất phát từ quan điểm này nên trong vụ án Winterbottom kiện Wright[5], thẩm phán đã bác bỏ yêu cầu bồi thường thiệt hại của nhân viên công ty bưu điện Posmaster General kiện ông Wright, người sản xuất ra chiếc xe ngựa chuyên dùng cho bưu điện. Winterbottom đã điều khiển chiếc xe này và trong một lần đi đưa thư, do thiết kế quá kém nên xe đã sập khiến người này bị thiệt hại về sức khoẻ. Trong suốt cả thế kỷ tiếp theo đó, đã có nhiều vụ án về trách nhiệm sản phẩm xảy ra song những người khởi kiện chưa thắng nổi. Học thuyết in privity vẫn đứng vững trước những sự tấn công của giới luật sư và các nhà hoạt động xã hội. Chỉ mãi nửa thế kỷ sau, học thuyết này mới bị sụp đổ trong vụ Henningsen kiện Bloomfield Motor[6]. Trong vụ án này, thẩm phán của toà án Mỹ đã bác bỏ thuyết in privity và áp dụng trách nhiệm của nhà sản xuất đối với an toàn sản phẩm trong quá trình sử dụng. Vụ án này mở đường cho sự phát triển của chế định trách nhiệm sản phẩm và cùng với nó là sự sụp đổ của thuyết in privity. Tiếp sau đó, năm 1963, các thẩm phán trong vụ Green Man kiện Yuba Power Products[7] đã hoàn thiện thêm các luận điểm về trách nhiệm sản phẩm. Do vậy, có thể thấy, Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên ra đời chế định trách nhiệm sản phẩm. Qua đó, các nguyên lý về trách nhiệm sản phẩm được hình thành và phát triển cho đến ngày nay. Cụ thể, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đối với sản phẩm bao gồm nhiều qui định riêng lẻ trong các mảng pháp luật khác nhau như về cẩu thả (negligence), đảm bảo (warranty), các qui định riêng biệt về sản phẩm, các qui phạm pháp luật bang và liên bang về sản xuất và bán sản phẩm, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng cũng như nguyên lý về trách nhiệm nghiêm ngặt (strict liability). Tại Hoa Kỳ, để xác định trách nhiệm sản phẩm, người ta dựa vào ba nguyên lý chủ yếu là sự cẩu thả, sự vi phạm nghĩa vụ đảm bảo và trách nhiệm nghiêm ngặt. 1.2.1. Nguyên lý về sự cẩu thả (Negligence) Cẩu thả là một cơ sở quan trọng trọng việc xác định các trách nhiệm theo luật về các vi phạm (tort law). Cẩu thả là việc bỏ qua, không thể hiện một sự quan tâm tránh cho người mình có nghĩa vụ phải quan tâm bị rơi vào tình trạng chịu thiệt hại. Trong việc áp dụng trách nhiệm sản phẩm, cẩu thả được coi là một cơ sở quan trọng. Sự cẩu thả (tắc trách) là việc nhà sản xuất không quan tâm ở mức độ cần thiết, tức là mức độ mà một nhà sản hay cung ứng bình thường cần có khi sản xuất hay cung ứng sản phẩm của mình ở trọng điều kiện và hoàn cảnh tại thời điểm sản xuất. Để xác định cẩu thả, cần chứng minh được sự hiểu biết của bên gây thiệt hại về khả năng xảy ra thiệt hại. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự không hiểu biết nào cũng tạo ra được cơ sở bảo vệ. Công thức: Biết và cần biết luôn được áp dụng ở đây. Ví dụ, nếu nhà sản xuất sữa sử dụng nguyên liệu từ những vùng bị dịch thì phải biết rằng sản phẩm của mình có thể tác động xấu đến sức khoẻ của người tiêu dùng. Điểm quan trọng khác khi xác định trách nhiệm do cẩu thả là sự tồn tại của nghĩa vụ quan tâm của người gây thiệt hại đối với người bị thiệt hại. Bên bị thiệt hại phải chứng minh được là giữa hai bên có một liên hệ về nghĩa vụ quan tâm. Hai người không có mối liên hệ với nhau nào cả thì không thể phát sinh nghĩa vụ. Mối liên hệ nghĩa vụ này phát sinh căn cứ vào các tình huống cụ thể. Ví dụ, người sản xuất thiết bị cưa gỗ phải có nghĩa vụ đảm bảo cho những người vận hành máy, cho dù những người này không phải là người đã ký hợp đồng mua máy cưa, sự an toàn khi vận hành máy. Ví dụ: Có một người xâm nhập vườn của người khác và bị rơi xuống một hố không đậy nắp và gãy chân. Người bị thiệt hại không thể lập luận rằng chủ của vườn có nghĩa vụ phải quan tâm đến sức khoẻ và sự an toàn của anh tra khi đi lại trên vườn này. Tuy nhiên, nếu người bị hại là khách mời thì ở đây xuất hiện nghĩa vụ của chủ đảm bảo sự an toàn cho khách của mình. Điểm quan trọng tiếp theo trong việc xác định trách nhiệm sản phẩm là việc người có sản phẩm vi phạm nghĩa vụ quan tâm đến sức khoẻ và tính mạng của người sử dụng sản phẩm. Người bị thiệt hại phải chứng minh được là người bán sản phẩm đã vi phạm nghĩa vụ của mình và chính sự vi phạm này đã làm phát sinh thiệt hại. Trong chừng mực nhất định có thể căn cứ tương tự mối quan hệ nhân quả được sử dụng rộng rãi trong các nước theo truyền thống luật dân sự khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong thực tiễn pháp luật ở Mỹ, giả định về việc tất cả sản phẩm đưa vào tiêu dùng phải an toàn và không bị hư hỏng luôn luôn được tôn trọng. Điều này có nghĩa là người sản xuất hay người cung ứng sản phẩm có nghĩa vụ đảm bảo sản phẩm của mình khi đến với ng...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status