So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 - pdf 13

Link tải luận văn miễn phí cho ae
A. Lời mở đầu:

Thành tựu quan trọng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong 64 năm qua kể từ ngày thành lập là đã xây dựng được bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện, phù hợp với bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như bộ máy nhà nước của các quốc gia khác trên thế giới, có cơ cấu tổ chức rất phức tạp bao gồm nhiều loại cơ quan có tên gọi khác nhau, được hình thành bằng những cách thức khác nhau và có chức năng, thẩm quyền khác nhau. Tuy nhiên, thông qua việc xây dựng ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hệ thống pháp luật đặc biệt là Hiến pháp đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước, thực hiện chức năng quản lý các mặt đời sống xã hội, lãnh đạo, động viên nhân dân thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong khuôn khổ bài viết này, nhóm em lựa chọn đề tài “so sánh bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959” để thấy sự phát triển ngày càng đầy đủ và hoàn thiện của bộ máy nhà nước trong thời kì đầu xây dựng chính quyền nhân dân.














B. Nội dung.
I. Khái niệm bộ máy nhà nước

Bộ máy nhà nước (BMNN) là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở; tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định tạo thành một cơ chế để thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Cơ quan nhà nước là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc và trình tự nhất định, có cơ cấu tổ chức nhất định và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước. Bộ máy nhà nước được hình thành và phát triển phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội, các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp hơn. Sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chúng ngày càng tiến bộ hơn.

II. So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959.

1. Hoàn cảnh ra đời bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959.

Khi xem xét, nghiên cứu bất kì sự vật, hiện tượng nào phải nghiên cứu nó trong điều kiện thời gian và không gian nhất định mới thấy hết bản chất của sự vật, hiện tượng. Do đó, không thể nghiên cứu bộ máy nhà nước tách rời hoàn cảnh lịch sử.
Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 ra đời sau khi nhân dân ta đập tan bộ máy thực dân phong kiến giành chính quyền nhà nước trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngay tại phiên họp đầu tiên( 03/9/1945) chính phủ lâm thời đã xác định sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước và nhân dân ta trong việc bảo tồn nền độc lập dân tộc và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. Trên tinh thần của phiên họp này, các văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới – Nhà nước dân chủ nhân dân được ban bố. Ngày 08/9/1945, Sắc lệnh số 14 quy định về thể lệ tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội được ban hành. Tháng 3/1946, Quốc hội họp kì đầu tiên và bầu ra ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ và các thành viên của chính phủ. Tháng 11/1946, tại kì họp thứ hai, Quốc hội đã thảo luận và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta đồng nghĩa với việc thông qua bộ máy nhà nước mà Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm cũng như điều kiện của nước ta sau cách mạng tháng Tám 1945 nên cơ cấu tổ chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước còn nhiều điểm chưa phù hợp với tính chất và vị trí của nó. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Đến năm 1959, bộ máy nhà nước mới ra đời trên cơ sở Hiến pháp 1959 đã thay thế cho bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lẫy lừng, nhân dân Việt Nam đã đánh bại đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết trên cơ sở công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta. Từ khi hoà bình lập lại, ở miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhân dân đã hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân. Nhưng miền Nam còn bị đế quốc và phong kiến thống trị, nước nhà tạm thời còn bị chia làm hai miền. Cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; đấu tranh thống nhất đất nước. Trong điều kiện đó, với những kinh nghiệm tích lũy của quá trình xây dựng chính quyền nhân dân, Nhà nước ta đã bước đầu củng cố lại bộ máy nhà nước và cho ra đời bộ máy nhà nước mới theo Hiến pháp 1959.
Như vậy, cả hai bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và 1959 đều ra đời sau những chiến thắng lớn (cách mạng tháng Tám năm 1945 đưa đến sự ra đời của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Điện Biên Phủ năm 1954 thúc đẩy sự ra đời của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959), phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội. Đây đều là những bộ máy nhà nước hoạt động trong thời kì chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc, vận hành với mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành những chiến thắng quyết định đem lại hòa bình, độc lập cho dân tộc.

2. Các cấp hành chính của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959:

Theo Hiến pháp 1946, bộ máy nhà nước được phân thành 5 cấp quản lý hành chính: cấp trung ương, cấp bộ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ), cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, cấp huyện, cấp xã và cấp tương đương. Đến Hiến pháp 1959, bộ máy nhà nước được củng cố và sửa đổi. Các cấp hành chính chỉ còn lại 4 cấp: Trung ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và khu tự trị; cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, thị trấn và tương đương; cấp bộ bị bãi bỏ.
Như vậy, hoàn cảnh lịch sử mới đã dẫn đến sự thay đổi của các cấp quản lý hành chính. Từ 5 cấp quản lý hành chính theo Hiến pháp 1946 xuống còn 4 cấp theo Hiến pháp 1959.



aNIRZ2nq3UR1NDT
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status