Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và một số kiến nghị - pdf 13

Download Luận văn Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và một số kiến nghị miễn phí



Pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do công chức gây ra trong khi thi hành công vụ. Tuy nhiên, điều mà
nhiều luật gia Việt Nam đang đặt câu hỏi là liệu ởViệt Nam đã tồn tại khái
niệm "trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước" và chế định "trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước" hay chưa. Hiện này có quan điểm cho
rằng trong hệthống pháp luật Việt Nam chưa hềtồn tại chế định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước mà chỉlà chế định trách nhiệm bồi thường
của các cơquan nhà nước mà thôi [37, tr. 18]. Cách tiếp cận của quan điểm này
là chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật thực định hiện hành của
Việt Nam. Nếu xét vềmặt kinh phí bồi thường thì trong lĩnh vực tốtụng hình sự,
kinh phí bồi thường của các cơquan tốtụng được cấp từngân sách Trung ương
theo một thủtục khá phức tạp (tham khảo mục VI, khoản 2 của Thông tưliên
tịch số01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP vềhướng dẫn
thi hành một sốquy định của Nghịquyết số388/2003/NQ-UBTVQH11 về
bồi thường thiệt hại cho người bịoan do người có thẩm quyền trong hoạt
động tốtụng hình sựgây ra)


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38395/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

p đơn giản hơn nhiều so với cách tiếp cận trách nhiệm thay thế.
Có thể nói điểm khác nhau cơ bản của hai cách tiếp cận này là việc coi
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại có phải là hành vi của Nhà nước hay
không? Cách tiếp cận coi trách nhiệm nhà nước là trách nhiệm trực tiếp có thể
bị phản đối vì có tồn tại hay không cái gọi là "hành vi của Nhà nước" vì hành
vi phải luôn là của con người [32, tr. 14]. Tuy nhiên, có thể khẳng định về mặt
cơ học, hành vi luôn là của con người, tuy nhiên trên góc độ pháp lý thì hành
vi của công chức lại có thể coi là hành vi của Nhà nước.
Một vấn đề cơ bản khác giữa hai cách tiếp cận này là nếu trách nhiệm
Nhà nước là trách nhiệm thay thế đồng nghĩa với việc phủ nhận trách nhiệm
30
của Nhà nước, theo đó việc bồi thường chỉ là một chính sách giống như chính
sách phúc lợi xã hội có mục đích bù đắp tổn thất mà thôi. Ngoài ra nếu coi
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm thay thế thì vô
hình chung đã gián tiếp khẳng định sự tồn tại của một quan niệm lỗi thời là
"Vua không thể làm sai" của lịch sử.
Như vậy, với việc khẳng định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước là một yêu cầu tất yếu của thời đại, Nhà nước thừa nhận trách nhiệm
bồi thường của mình là trách nhiệm tự thân, có thể khẳng định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm trực tiếp.
c) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước không chỉ là
trách nhiệm tài sản mà còn là trách nhiệm khôi phục lại những tổn thất về
tinh thần cho người bị thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước như đã khẳng định là
trách nhiệm dân sự. Như vậy, trách nhiệm này bao gồm trách nhiệm về tài sản
(trong trường hợp tài sản bị thiệt hại) và trách nhiệm khôi phục những tổn thất
về tinh thần (trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm).
Có thể nói, điều này đã được khẳng định trong pháp luật Việt Nam
hiện hành, cụ thể là Nghị quyết số 388 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều
có quy định về việc khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại bởi hoạt động tố
tụng hình sự. Đây là những quy định cần được kế thừa khi hoàn thiện chế
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
d) Yếu tố trái pháp luật của việc gây thiệt hại được hiểu theo nghĩa rộng
Về lý luận, một chủ thể chỉ phải chịu trách nhiệm nếu thực hiện hành
vi trái pháp luật và gây thiệt hại cho một chủ thể khác. Điều này đồng nghĩa
với việc coi tính trái pháp luật là một thuộc tính của hành vi gây thiệt hại. Tuy
nhiên, liệu giới hạn của chính sách pháp lý được mở rộng theo hướng quy
định cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong trường hợp hành
vi là hoàn toàn đúng pháp luật nhưng xét về hậu quả thì lại trái pháp luật - tức
31
là vẫn gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức - thì cơ chế điều chỉnh đối với trách
nhiệm bồi thường trong hai trường hợp này có giống nhau? Một trong những
loại hoạt động của Nhà nước dù đúng luật nhưng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất
lớn trong việc gây thiệt hại cho người dân là các hoạt động tố tụng hình sự.
Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ cũng như cơ sở pháp lý để thực hiện các hoạt
động tố tụng thì trong rất nhiều trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan công tố,
Tòa án đã thực hiện đúng pháp luật nhưng xét về hậu quả vẫn gây ra thiệt hại
cho người bị bắt, truy tố, xét xử. Các chuyên gia pháp lý Nhật Bản còn nêu
lên một loại hoạt động cũng dễ gây ra thiệt hại cho người dân là hoạt động
tiêm chủng quốc gia. Khi Nhà nước thực hiện Chương trình tiêm chủng quốc
gia cho trẻ em thì mọi hành vi của Nhà nước đều được thực hiện đúng pháp
luật, từ việc cung cấp thuốc đúng chủng loại, chất lượng đến việc tiêm đúng
liều lượng v.v.. mà vẫn gây ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí tính mạng của
một số em bé thì ở đây là trách nhiệm đền bù, vì Nhà nước hoàn toàn chẳng
làm gì sai trái cả. Vấn đề là ở chỗ vì một nguyên nhân nào đó mà em bé đó
vẫn bị ảnh hưởng về sức khỏe hay tính mạng [33, tr. 8]. Đây là vấn đề rất
quan trọng vì nó có liên quan đến ngân sách của Nhà nước vì nếu mở rộng
phạm vi được bồi thường thì ngân sách nhà nước sẽ phải gánh chịu thêm
nhiều khoản chi; mặt khác nó còn thể hiện được vai trò của Nhà nước đối với
những thiệt hại của các cá nhân, tổ chức chịu thiệt hại từ những hành vi của
Nhà nước cho dù hành vi đó là đúng pháp luật hay trái pháp luật.
Trong pháp luật dân sự, thông thường một chủ thể chỉ phải chịu trách
nhiệm bồi thường khi hành vi gây thiệt hại của mình là hành vi trái pháp luật.
Tuy nhiên, trong quan hệ bồi thường nhà nước thì nếu áp dụng tương tự như
vậy thì bên bị thiệt hại sẽ rất thiệt thòi. Đứng ở vị trí là cá nhân, tổ chức bị
thiệt hại từ những hoạt động của Nhà nước thì chắc chắn là họ luôn mong
muốn mình sẽ được Nhà nước bồi thường cho mọi thiệt hại của mình mà
không cần biết thiệt hại của mình là do hành vi trái pháp luật hay đúng luật
gây ra. Đứng ở vị trí là Nhà nước - chủ thể hoạt động luôn vì lợi ích chung
32
của xã hội thì việc bồi thường cho mọi thiệt hại của cá nhân, tổ chức gây ra
bởi hành vi của mình là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Đây là một hạn chế rất
lớn trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, điển hình là Nghị quyết số 388
về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra. Nghị quyết này đã không có sự phân biệt rạch ròi
giữa hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và hành vi đúng luật nhưng xét về
hậu quả vẫn gây thiệt hại cho người dân để xác định những cơ chế điều chỉnh
khác nhau cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Điều này đã gây nên một
thực trạng đáng báo động trong hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng hiện nay là e ngại làm oan, sợ trách nhiệm và giảm sút tinh thần đấu
tranh, phòng chống tội phạm [38, tr. 9].
Như vậy, xét một cách toàn diện từ việc bảo đảm quyền, lợi ích cho người
bị thiệt hại đến vai trò quan trọng của Nhà nước đối với lợi ích chung của toàn
xã hội thì xác định tính trái pháp luật đối với việc gây thiệt hại của Nhà nước
cần hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và
hành vi đúng luật nhưng xét về hậu quả là trái pháp luật - vẫn gây ra thiệt hại.
đ) Yếu tố "công vụ" trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Nhà nước
Chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
chỉ điều chỉnh trường hợp Nhà nước gây thiệt hại trái pháp luật cho cá nhân,
tổ chức khi nhân danh quyền lực công - tức là Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm
bồi thường trong trường hợp gây ra thiệt hại khi công chức thực thi công vụ.
Tuy nhiên, hiểu như thế nào về khái niệm "công vụ" có ý nghĩa quan tr...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status