Tiểu luận Tổng quan về luật sở hữu trí tuệ 2005 - pdf 13

Download Tiểu luận Tổng quan về luật sở hữu trí tuệ 2005 miễn phí



Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định sở hữu trí tuệ là một ngành luật riêng, trong khi đó các quy định về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam lại được sáp nhập vào Bộ Luật dân sự. Tuy việc tách hay nhập mang tính hình thức nhiều hơn nội dung, vẫn có nhiều ý kiến cho rằng cần tách ội dung của sở hữu trí tuệ ra khỏi nội dung của Bộ Luật dân sự. Các lý do cho lập luận trên được tập trung vào ba nhóm:
Thứ nhất, quan hệ pháp luật về sở hữu trí tuệ mang cả tính chất hành chính lẫn tính chất dân sự. Ví dụ như việc đăng ký bảo hộ mang tính chất hành chính, trong khi quyền và nghĩa vụ mang tính chất dân sự.
Thứ hai, các quy định về sở hữu trí tuệ tương đối phức tạp về khái niệm, cách phân biệt, lại tập trung giải quyết vấn đề vô hình, một vấn đề mà các phần khác của Bộ Luật dân sự không đề cập đến. Như vậy cũng không có sự đan xen kết hợp giữa các phần khác của Bộ Luật dân sự với phần 6 (quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ) của Bộ Luật dân sự.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38538/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Huyền
SBD: 27
Lớp: KTTG 17B
NHÓM I : LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TỔNG QUAN VỀ LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005
I. Giới thiệu về sở hữu trí tuệ
1. Khái niệm về sở hữu trí tuệ
Trên thực tế có rất nhiều sản phẩm trí tuệ. Việc huấn luyện viên Weigang tuyển chọn Hồng Sơn, Huỳnh Đức vào đội tuyển quốc gia Việt Nam, sắp xếp đội hình thi đấu ở Seagame 18 chắc chắn là một sản phẩm trí tuệ. Tuy nhiên Weigang không được sở hữu sản phẩm trí tuệ của mình. Ngược lại, hai chữ cái P/S - nhãn hiệu kem đánh răng không có gì là “trí tuệ” thì lại được coi là sản phẩm của sở hữu trí tuệ. Vậy không phải mọi thứ “trí tuệ” đều được bảo hộ dưới dạng quyền sở hữu trí tuệ. Ngược lại, không phải mọi quyền sở hữu trí tuệ đều là sản phẩm của trí tuệ. Mặc dù không có định nghĩa chính thống và trực tiếp thế nào là sở hữu trí tuệ, nhưng tại Điều 2 (8) của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ký ngày 14-7-1967 quy định: “Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan đến các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế trong tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người; các khám phá khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và các tên thương mại; bảo hộ chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh; và tất cả các quyền khác nảy sinh từ kết quả của hoạt động trí tuệ thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghiệp”.
Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 thì tại Khoản 1 điều 4 của Luật sở hữu trí tuệ đã định nghĩa:
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Hay hiểu một cách khác, quyền sở hữu trí tuệ là các quyền đối với tài sản vô hình là thành quả của lao động sáng tạo, hay uy tín kinh doanh của các chủ thể được pháp luật quy định bảo hộ.
2. Tài sản vô hình có thể là sở hữu được không?
Khi phân tích khái niệm sở hữu trí tuệ, chúng ta thấy một số vấn đề cần được giải thích rõ. Trước hết là khái niệm tái sản vô hình. Nó khác với tài sản tại Điều 161 Bộ luật dân sự (Bộ luật dân sự - các tài sản hữu hình). Tài sản vô hình là những tài sản không nhìn thấy được, nhưng trị giá được bằng tiền và có thể trao đổi (ví dụ như thương quyền, uy tín).
Tiếp đến là khái niệm “thành quả lao động sáng tạo”. Yếu tố hiện diện trên hầu hết các đối tượng sở hữu trí tuệ là sự sáng tạo. Nếu không có sự sáng tạo thì cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay cũng không khác gì cuộc sống của nhiều năm về trước. Cuộc cách mạng công nghiệp đã thay đổi cách nhìn của mọi người về giá trị của sự sáng tạo. Một loạt sáng chế, cải tiến ra đời cho thấy sáng tạo là động lực phát triển của xã hội. Và vì thế nhà nước cần có cơ chế khuyến khích hoạt động sáng tạo thông qua quy định bảo hộ. Tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo hộ những thành quả lao động sáng tạo có đóng góp nhất định đối với sự phát triển của kinh tế xã hội. Một số thành quả lao động sáng tạo không đem lại lợi ích thực tế gì và không ứng dụng vào thực tế cuộc sống được (ví dụ như một trò ảo thuật biến một chiếc cốc vàng thành một chiếc cốc đỏ) không được bảo vệ dưới dạng sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng nâng cao được chất lượng sản phẩm. Ví dụ như câu chuyện về đèn Davy: Humphry Davy (1778-1829) phát minh ra chiếc đèn an toàn mà ở Việt Nam gọi là đèn Măng-xông. Loại đèn này được đặt trong mạng lưới dây dẫn để ngăn không cho lửa tràn ra ngoài, gay cháy nổ, giải quyết được nguy cơ lớn nhất cho người thợ mỏ khi phải sử dụng nến trong hầm lò. Tuy nhiên, Davy đã không xin cấp bằng sáng chế bởi ông muốn đó là sáng chế để cứu người. Kết quả là rất nhiều thương gia đã sản xuất đèn an toàn và bán tràn lan bất chấp chất lượng thấp và đã gây ra nhiều vụ nổ hầm lò khiến nhiều người thietj mạng. Qua thảm kịch này cho chúng ta thấy: bằng độc quyền sáng chế còn được dùng để bảo đảm chất lượng sản phẩm của nhà sản xuất.
Bên cạnh thành quả lao động sáng tạo thì uy tín thương mại cũng là một tài sản có giá trị lớn. Đó là những tài sản vô hình, song đôi khi lại là tài sản có giá trị nhất và cần được bảo vê. Thí dụ trong khi góp vốn liên doanh xây dựng nhà máy sản xuất kem đánh răng Elida P/S, giá trị nhà xưởng và quyền sử dụng đất của phía Việt Nam được định giá chưa đến 1 triệu USD, trong khi đó nhãn hiệu P/S được mua với giá hơn 4 riêu USD. Vì sao một nhãn hiệu lại được định giá cao như vậy? bởi vì đằng sau nhan hiệu là cả một quá trình phán đấu đầu tư công sức (vô hình) của cả một tập thể nhà máy đưa một sản phẩm từ khi chưa có chỗ đứng trên thị trường thành một sản phẩm nổi tiếng chiếm hơn 2/3 thi phần Việt Nam (vào thời điểm liên doanh).
3. Phân loại sở hữu trí tuệ
Ở các nước bản quyền hay sáng chế xuất hiên từ thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Không ai dùng từ sỏ hữu trí tuệ cho đén khi xuất hiên lần đầu tiên vào năn 1952 bởi giáo sư A.Bogsch, giám đốc Văn phòng Quốc tế về quản lý sáng chế đưa ra. Luật Việt Nam cũng như luật các nước khác trên thế giới không có định nghĩa trực tiếp như thế nào là sở hữu trí tuệ mà chỉ có định nghĩa gián tiếp thông qua phân loại sở hữu trí tuệ thành quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
a) Quyền tác giả
Quyền tác giả bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của các tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Quyền tác giả còn được gọi là tác quyền hay bản quyền. Chúng ta thường thấy các thí dụ về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc hay chương trình máy tính. Đối với quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền sử dụng và khai thác tác phẩm. Mọi hành vi sao chép, trích dịch, cong bố nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Sao băng đĩa lậu, sao chép phần mềm vi tính, in lậu sách giáo khoa bán ra thị trường... cũng là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Trong một số trường hợp, pháp luật cho phép chúng ta sao chép, trích đoạn một phần của tác phẩm (người ta gọi là sử dụng hạn chế).
Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức nhất định. Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không bắt buộc phải đăng ký quyền tác giả tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tác phẩm dù có đăng ký hay không đăng ký quyền tác giả đều được hưởng sự bảo hộ như nhau từ phía Nhà nước. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả lại cần thiết và rất có ý nghĩa trong việc chứng minh quyền tác giả khi có tranh chấp xảy ra.
b) Quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đố...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status