Tiểu luận Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi trong chương nuôi con nuôi theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật nuôi con nuôi năm 2010 - pdf 13

Download Tiểu luận Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi trong chương nuôi con nuôi theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật nuôi con nuôi năm 2010 miễn phí



MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 1
I. KHÁI NIỆM CHUNG 1
1. Khái niệm “Con nuôi” 1
2. Khái niệm “Nuôi con nuôi” 2
II. ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ ĐIỀU KIỆN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI TRONG CHƯƠNG CON NUÔI CỦA LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 2000 VÀ LUẬT NUÔI CON NUÔI 2010 3
1. Điều kiện của việc nuôi con nuôi 3
2. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi 8
C – KẾT LUẬN 10
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39060/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội Việt Nam, việc nhận nuôi con nuôi đã tồn tại từ lâu, với nhiều lý do và mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu xuất phát từ lòng thương người, muốn cưu mang, giúp đỡ những người rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Pháp luật Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm về vấn đề nuôi con nuôi cũng như tham gia các công ước quốc tế về trẻ em. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời đã xây dựng được một khung pháp lý thống nhất và tương đối ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài với hiệu lực pháp lý điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Tuy nhiên không thể tránh khỏi sự khác biệt, đối lập giữa các quy định pháp luật với nhau. Chính vì vậy em xin chọn đề tài: “Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi trong chương nuôi con nuôi theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật nuôi con nuôi năm 2010”. Do sự hạn chế về kiến thức và hiểu biết nên bài làm còn nhiều sai sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài làm được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM CHUNG
1. Khái niệm “Con nuôi”
- Dưới góc độ xã hội: con nuôi là con của người khác nhưng được một người hay hai người là vợ chồng nhận làm con và coi như con đẻ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích nhất định của các bên.
- Dưới góc độ pháp lý: con nuôi là người có đủ điều kiện do pháp luật quy định được một hay hai người là vợ, chồng công nhận làm con qua những thủ tục pháp lý nhất định mà giữa hai bên không có quan hệ huyết thống trực hệ, không sinh thành ra nhau và không phải là anh chị em ruột của nhau.
2. Khái niệm “Nuôi con nuôi”
Trong khoản 1 Điều 67 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có quy định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”. Trong khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010 cũng có quy định tương tự: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.
Dưới góc độ là sự kiện pháp lí, việc nuôi con nuôi là cấu thành sự kiện – sự kiện pháp lí phức hợp.
- Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi: Người nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó. Ý chí, mong muốn đó của người nhận nuôi phải được thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi;
- Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hay người giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi: Ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh bạch, và xuất phát từ sự tự nguyện thật sự của bản thân họ mà không có bất cứ sự tác động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hay một áp lực nào. Nói cách khác, ý chí đó phải hoàn toàn độc lập. Nội dung của ý chí đó là đồng ý cho con mình làm con nuôi của người khác. Sự đồng ý đó có thể thể hiện bất cứ lúc nào nhưng nó chỉ có ý nghĩa sau khi đứa trẻ được sinh ra mà còn sống;
- Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi: Khoản 2 Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2000 và khoản 1 Điều 21 Luật nuôi con nuôi có quy định: “Việc nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó”. Trong trường hợp này đứa trẻ tuy chưa được coi có năng lực hành vi đầy đủ nhưng đã có khả năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận biết và bày tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong muốn làm con nuôi người khác, cũng như cảm nhận được sự an toàn hay không an toàn khi được cho làm con nuôi người khác, khi phải thay đổi môi trường sống… Do đó, pháp luật quy định đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình; sự đồng ý làm con nuôi của đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lí;
- Sự thể hiện ý chí của Nhà nước. Ý chí của Nhà nước được thể hiện qua việc công nhận (hay không công nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi (hay từ chối việc đăng kí nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi được công nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lí của việc nuôi con nuôi.
II. ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ ĐIỀU KIỆN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI TRONG CHƯƠNG CON NUÔI CỦA LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 2000 VÀ LUẬT NUÔI CON NUÔI 2010
1. Điều kiện của việc nuôi con nuôi
a. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
- Điểm khác thứ nhất: Về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi.
Theo khoản 1 Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Người được nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống. Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hay làm con nuôi của người già yếu cô đơn”. Còn khoản 1 điều 8 Luật con nuôi năm 2010 đã quy định lại: Người được nhận làm con nuôi là: “Trẻ em dưới 16 tuổi”. Sở dĩ Luật Nuôi con nuôi 2010 đã quy định tăng thêm 1 tuổi so với độ tuổi trước đây là dưới 16 tuổi. Bởi ở độ tuổi này chưa có sự trưởng thành đầy đủ về mặt thể chất, tinh thần, đang trong quá trình định hình và phát triển nhân cách, rất cần sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của người lớn. Nó có ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em trong tương lai. Mặt khác, quy định độ tuổi như vậy cũng tương ứng với quy định của các ngành luật khác như luật Lao động, luật Dân sự. Từ 16 tuổi trở lên là người đã có khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân, có năng lực hành vi dân sự và sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng đã bỏ đi quy định: “Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hay làm con nuôi của người già yếu cô đơn”. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho những người ở điều kiện, hoàn cảnh trên được chăm sóc, nuôi dưỡng, có chỗ nương tựa trong cuộc sống. Tuy nhiên trong thực tiễn, những trường hợp này rất ít xảy ra mặc dù ý tưởng của quy định này là rất tốt đẹp. Hơn nữa, đối với những người già yếu bệnh tật, thương binh thì đã có các chính sách xã hội giải quyết như hỗ trợ tài chính đền ơn đáp nghĩa,… Chính vì sự thiếu tính khả thi đó mà Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã bỏ quy định này đi và thay vào đó là quy định khác hợp lý hơn.
- Điểm khác thứ hai: nhận nuôi con nuôi giữa những người có quan hệ họ hàng.
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định thêm ở khoản 2 Điều 8. Người được nhận làm con nuôi là: “Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Được cha dượng, mẹ kế nh
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status