Tiểu luận Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý người bào chữa - pdf 13

Download Tiểu luận Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý người bào chữa miễn phí



MỤC MỤC
TRANG
A – LỜI MỞ ĐẦU 2
B – NỘI DUNG 2
I – LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ. 2
1. Khái niệm chung về người bào chữa. 2
2. Những người không được tham gia bào chữa 3
II –QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ NGƯỜI BÀO CHỮA 4
1. Quyền của người bào chữa. 4
2. Nghĩa vụ của người bào chữa 12
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NBC TRONG TỐ TỤNG 15
C - KẾT LUẬN . . 15
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39021/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

bào chữa thma gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81, 82 của BLTTHS thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Theo đó người bào chữa có thể tham gia tố tụng vào một trong ba thời điểm:
- Người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi khởi tố bị can;
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã (Điều 81 BLTTHS), bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 82 BLTTHS);
- Người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi kết thúc điều tra trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, theo quyết định của VIện trưởng Viện kiểm sát.
Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bào chữa của họ trong suốt quá trình giải quyết vụ án, cũng như thể hiện mức độ thực hiện quyền bào chữa của các đối tượng theo quy định của pháp luật. Người bào chữa tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Đối với mỗi vụ án cụ thể, việc người bào chữa được tham gia tố tụng vào thời điểm nào ảnh hưởng đến khả năng tham gia tìm hiểu, theo dõi về vụ án đó. Được tham gia tố tụng càng sớm, người bào chữa càng có điều kiện thực hiện các hoạt động mà pháp luật cho phép để tìm ra những chi tiết, chứng cứ có lợi cho thân chủ mình. Mặt khác, các cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện việc bắt, tạm giam, và các hoạt động điều tra khác vẫn có những trường hợp còn thiếu sót làm ảnh hưởng hay vi phạm quyền lợi hợp pháp của NBTG, BCBC. Với sự tham gia của người bào chữa ngay từ khi có quyết định tạm giam, những hoạt động này sẽ được giám sát và như vậy quyền lợi của người được bào chữa sẽ được bảo đảm hơn. Quy định về việc người bào chữa có thể tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giam là một bước tiến của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988. Theo quy định của BLTTHS 1988, người bào chữa chỉ được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Đây là sự thay đổi mang tính phát triển của BLTTHS 2003, bởi lẽ việc quy định người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp giúp người bào chữa được tham gia tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, từ đo có sự chủ động cần thiết trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội hay những tình tiết có lợi cho NBTG, BCBC. Việc tham gia của người bào chữa ngay từ khi có quyết định tạm giữ cũng tránh được sự lạm quyền từ phía CQĐT, bắt giam, tạm giữ không cần thiết, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Có thể nói, quy định này thể hiện sự tiến bộ và dân chủ của pháp luật TTHS Việt Nam.
BLTTHS 2003 dành khoản 2 Điều 58 để quy định về quyền của người bào chữa trong TTHS.
- Thứ nhất, quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi NBTG, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mình bào chữa.
Đây là quy định mở rộng sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động điều tra. Việc tham gia này của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung có ý nghĩa trợ giúp ban đầu đối với NBTG, BCBC. Sự có mặt của người bào chữa khi lấy lời khai, khi hỏi cung giúp cho NBTG, BCBC được ổn định về mặt tâm lí hơn khi trả lời những câu hỏi của ĐTV. Điều này sẽ giúp hạn chế tình trạng do quá sợ hãi hay thiếu hiểu biết, NBTG, BCBC khai không đúng với thực tế vụ án. Sau đó chính những lời khai này có thể trở thành chứng cứ buộc tội đối với NBTG, BCBC. Ngoài ra, với sự am hiểu pháp luật của mình, người bào chữa còn có giúp NBTG, BCBC nhìn ra những điểm sơ hở, thiếu chặt chẽ trong biên bản lời khai, giúp NBTG, bị can khai lại, giải thích lại đúng với sự thật vụ án. Sự thamg gia của người bào chữa ngay trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung còn bảo đảm cho những hoạt động được tiến hành đầy đủ, tuân thủ pháp luật hơn. Bởi lẽ, với sự có mặt của người bào chữa, những người THTT sẽ thận trọng và làm việc đúng pháp luật hơn. Trên thực tế, đã có những trường hợp khi không có sự tham gia của người bào chữa, ĐTV rất dễ duy ý chí, chủ quan, thậm chí còn có hành vi bức cung, ép cung, mớm cung… để làm cho hồ sơ vụ án theo hướng suy đoán của bản thân. Tình trạng này sẽ được hạn chế phần nào khi trong các hoạt động điều tra người bào chữa cũng có mặt. Tham gia vào các hoạt động điều tra, giúp cho người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án, đồng thời nắm rõ các tình tiết, chứng cứ để từ đó đưa ra lời bào chữa thích hợp và hiệu quả cho NBTG, bị can trong những giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Người bào chữa còn có thể hỏi NBTG, BCBC nếu được sự đồng ý của ĐTV. Đây là quy định thể hiện sự công bằng của pháp luật. Trong biên bản hỏi cung không chỉ có những tình tiết mang tính buộc tội, mà những câu hỏi của người bào chữa cũng có thể dẫn đến những luận cứ cho thấy NBTG, BCBC không có tội hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định người bào chữa chỉ được hỏi NBTG, BCBC nếu được ĐTV đồng ý. Quy định như vậy mặc dù bảo đảm cho trật tự của buổi lấy lời khai, hỏi cung nhưng cũng có thể dẫn đến tình trạng người bào chữa không được thực hiện quyền này, vì quyết định phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người ĐTV. Người bào chữa cũng có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra khác, ví dụ như: hoạt động đối chất, nhận dạng; hoạt động khám nghiệm, thực nghiệm hiện trường; khám xét, thu giữ tài sản…
Khi tham gia các hoạt động điều tra, người bào chữa được quyền xem xét các biên bản về các hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên quan tới người mà mình bào chữa. khi xem xét, người bào chữa có thể đối chiếu biên bản có phù hợp với quá trình tiến hành hoạt động điều tra hay không. Nếu nhận thấy hành vi tố tụng của ĐTV không phù hợp với quy định của pháp luật hay biên bản có những yếu tố vi phạm pháp luật, người bào chữa có thể khiếu nại cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Như vậy, có thể thấy, sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động lấy lời khai, hỏi cung và sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động điều tra khác góp phần nâng cao chất lượng điều tra, xét xử, đặc biệt công bằng, dân chủ trong pháp luật TTHS Việt Nam. BLTTHS 2003 quy định cho người bào chữa quyền này là hoàn toàn hợp lí.
- Thứ hai, quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Quy định của pháp luật về quyền của người bào chữa được có mặt trong khi hỏi cung BCBC sẽ khô...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status