Tiểu luận Tìm hiểu 3 vụ tranh chấp trong thực tế về chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự - pdf 13

Download Tiểu luận Tìm hiểu 3 vụ tranh chấp trong thực tế về chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự miễn phí



Nội dung giải quyết của Tòa án:
Ngày 26 tháng 07 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 509/2006/TLST-KDTM ngày 01 tháng 08 năm 2006 tranh chấp kinh doanh thương mại về “ hợp đồng gia công “ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số /2007/QĐST-KDTM ngày 05 tháng 06 năm 2007.
HĐXX nhận thấy như sau :
Căn cứ vào điều 4 của hợp đồng giữa hai bên thể hiện cách thanh toán được thỏa thuận như sau :
+Bên A ứng trước (đợt 1) 30 % giá trị hợp đồng = 50.000.000 đồng bằng tiền mặt cho bên B ngay sau khi ký hợp đồng.
+ Sau khi thử khuôn lần đầu tiên (lần thứ nhất) Bên A ứng (đợt 2) 20 % giá trị hợp đồng (35.000.000 đồng) .
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39011/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

tiễn và đời sống. Sự phong phú, phức tạp của nó góp phần làm nên những mảng màu trong bức tranh sống động về tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên, những tranh chấp này đã được giải quyết như thế nào? Những quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích cho người có quyền đã hoàn thiện hay chưa? Sau đây, chúng ta sẽ đi tìm hiểu 3 vụ tranh chấp trong thực tế về chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự để làm sáng tỏ vấn đề trên.
NỘI DUNG:
I. Cơ sở lí luận:
Điều 285 BLDS quy định:” Bên có nghĩa vụ phải thực hiện NVDS đúng thời hạn”- thời hạn thực hiện NVDS do các bên thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật. Vậy, nếu có sự vi phạm nghĩa vụ dân sự về thời hạn thì hậu quả pháp lý sẽ thế nào?
Chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự là nghĩa vụ dân sự vẫn chưa được thực hiện hay chỉ được thực hiện một phần thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết. Trong trường hợp này, bên chậm thực hiện nghĩa vụ phải thông báo cho bên có quyền về việc thực hiện NVDS không đúng thời hạn và đi đến thỏa thuận về hoãn thực hiện NVDS. Tuy nhiên, nếu sau thời gian gia hạn mà bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện được nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lí. Điều 305 BLDS quy định:” Khi nghĩa vụ dân sự chậm được thực hiện thì bên có quyền có thể gia hạn để bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ, nếu quá thời hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa được hoàn thành thì theo yêu cầu của bên có quyền, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại; nếu thực hiện nghĩa vụ không còn cần thiết đối với bên có quyền thì bên này có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp thỏa thuận khác hay pháp luật có quy định khác.”
II. Tình huống số 1:
Chủ thể:
Nguyên đơn: Nhà xuất bản Lao động- xã hội- trụ sở tại 41 Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Bị đơn: Tạp chí Thời trang Mỹ nghệ và kim hoàn( gọi tắt là tạp chí Thời trang) có trụ sở tại số 2B Lê Phụng Hiểu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Nội dung vụ việc:
Từ tháng 11-2000 đến tháng 8- 2002, tạp chí Thời trang ký 13 hợp đồng dịch vụ in ấn tạp chí( hàng tháng 1 kỳ) với công ty in Lao động- xã hội. Tổng giá trị các hợp đồng là 77.526.000 đồng. Hợp đồng ghi rõ” nếu quá hạn thanh toán số tiền chậm sẽ tính theo lãi suất 2%/ tháng”. Tạp chí thời trang mới trả tiền 2 hợp đồng còn 11 hợp đồng chưa thanh toán với công ty in.
Ngày 24/2/2003: công ty in yêu cầu Tạp chí Thời trang thanh toán số nợ là 52.226.000 đồng. Tiếp đó, ngày 25/2/2003; 28/2/2003: công ty in đưa ra các phương án để giải quyết nợ nhưng đều không nhân được câu trả lời của tạp chí Thời trang.
Ngày 28/10/2003: NXB khởi kiện đòi nợ tạp chí Thời trang thanh toán số tiền 52.226.500 đồng.
Tạp chí Thời trang xác nhận chưa thanh toán 1 số hợp đồng. Tuy nhiên cũng cho rằng nhiều hợp đồng nguyên đơn giao hàng chậm, tạp chí không đảm bảo chất lượng nên nguyên đơn cũng phải chịu phạt, khoản tiền đề nghị phạt là 214.600.000 đồng.
Vấn đề là: ngày 7/5/2003 công ty in LĐXH đã sáp nhập thành NXB LĐXH theo quyết định số 564/2003/QĐ-LĐXH cho nên Tạp chí Thời trang cho rằng công ty in không có tư cách pháp lý để khởi kiện tranh chấp hợp đồng.
Tranh chấp trên đã được giải quyết.
Quá trình giải quyết như sau: Tại bản án sơ thẩm số 10/KTST ngày 20/4/2004. TAND Thành phố Hà Nội quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NXB LĐXH đòi khoản tiền chưa
thanh toán của hai hợp đồng kinh tế đối với Tạp chí Thời tang Mỹ nghệ và kim hoàn.
Buộc tạp chí Thời trang Mỹ nghệ kim hoàn phải có trách nhiệm thanh toán cho NXB LĐXH các khoản tiền sau:
+ Khoản nợ chưa thanh toán của 11 hợp đồng in tạp chí là 52.226.500 đồng.
+ Lãi chậm thanh toán( 01/3/2003 đến 31/3/2004) là 6.361.187 đồng.
Tổng cộng là 58.587.687 đồng.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của Tạp chí Thời trang mỹ nghệ và kim hoàn buộc nhà XB LĐXH số tiền in lịch Bảo Tín đã nhận là 5.334.000 đồng.
- Bác các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp đồng kinh tế của Tạp chí Thời trang mỹ nghệ và kim hoàn đối với NXB LĐ-XH.
Ngày 28/4/2004: tạp chí Thời trang mỹ nghệ và kim hoàn có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với lý do Công ty in không thực hiện đúng các hợp đồng in tạp chí và không có tư cách pháp lý để khởi kiện tranh chấp hợp đồng.
Tại bản án phúc thẩm số 157 ngày 16/9/2004, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội tuyên hủy bản án kinh tế sơ thẩm số 10/KTST ngày 20/4/2004 của TAND TP Hà Nội và đình chỉ giải quyết vụ việc.
Ngày 28/1/2004, NXB có đơn khiếu nại đối với bản án phúc thẩm số 157 ngày 16/9/2004 của Tòa phúc thẩm TAND TC tại Hà Nội.
Ngày 6/6/2005 chánh án TAND kháng nghị bản án phúc thẩm của tòa phúc thẩm TANDTC với lý do: Tòa án phúc thẩm xác định thời hiệu không phù hợp với thực tiễn và đề nghị Hội đồng thẩm phansTANDTC xét xử giám đốc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Kết luận của tòa án:
Khoản tiền công ty in đòi nợ Tạp chí thời trang là của các hợp đồng in ấn được ký kết trước ngày sáp nhập doanh nghiệp mới. Tuy trong đơn khởi kiện đầu tiên được làm ngày 8/7/2003, là sau ngày có quyết định số 564/2003/QĐ-LĐXH ngày 7/5/2003 của Bộ Lao động- Thương binh và xã hội, nhưng trong thời gian này doanh nghiệp mới chưa đủ điều kiện có thể hoạt động kinh doanh, tham gia tố tụng tại tòa. Tháng 8-2003, doanh nghiệp mới được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh và đến tháng 9-2003 mới có con dấu để giao dịch. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận thụ lý đơn kiện do còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Nhà xuất bản Lao động – Xã Hội( đơn vị mới) sau đó ngày 26-9-2003 cũng công nhận nội dung khởi kiện và tư cách pháp nhân, Nhà xuất bản LĐXH đã làm đơn ngày 28/10/2003 thay thế đơn khởi kiện ngày 8/7/2003 là đúng thủ tục.
Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Quyết định số 564/2003/QĐ-LĐXH ngày 7/5/2003 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội và căn cứ ngày làm đơn của Nhà xuất bản LĐXH ngày 28/10/2003 để cho rằng đơn khởi kiện ngày 8/7/2003 của Công ty in không có giá trị pháp lý và đơn kiện của NXB LĐ-XH đã hết thời hiệu khởi kiện là không đúng.
Mặt khác theo điều 4 của hợp đồng thì các bên có thỏa thuận”...Nếu quá thời hạn thanh toán, số tiền chậm lại sẽ tinh theo lãi suất 2%/ tháng”. Như vậy, theo điều kiện thanh toán của hợp đồng này thì hai bên chấp nhận có thể thanh toán muộn, nhưng phải trả lãi chậm trả và cũng không quy định thời hạn trả chậm. Với thỏa thuận này thì không thể kết luận đơn khởi kiện ngày 28/10/2003 của Nhà xuất bản là đã hết thời hiệu khởi kiện.
Bình luận của nhóm về áp dụng pháp luật và quyêt định của tòa án.
Theo nhóm chúng tôi, về các quy định c
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status