Tiểu luận Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 – Sự kế thừa và phát triển - pdf 13

Download Tiểu luận Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 – Sự kế thừa và phát triển miễn phí



MỤC LỤC
A- Đặt vấn đề 2
B- Giải quyết vấn đề 2
I. Định nghĩa về Quốc tịch 2
1. Quốc tịch là gì? 2
2. Cơ sở ra đời và tồn tại của Quốc tịch 2
3. Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân 2
II. Sự hình thành và phát triển của pháp luật Quốc tịch Việt Nam 3
1. Giai đoạn trước năm 1975 3
2. Giai đoạn sau năm 1975 3
a, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 4
b, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 4
c, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 4
III. Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008- Sự kế thừa và phát triển 4
1. Nguyên tắc một Quốc tịch 4
2. Nhập Quốc tịch Việt Nam 6
3. Trở lại Quốc tịch Việt Nam 6
4. Mất Quốc tịch Việt Nam 7
5. Pháp luật Quốc tịch về trẻ em 9
C- Kết thúc vấn đề 9
 
Danh mục tài liệu tham khảo 10
 
 
 
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38959/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ta trong giai đoạn đi lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành, vấn đề quốc tịch Việt Nam luôn có sự kế thừa và phát triển. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là một minh chứng cụ thể.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Định nghĩa về Quốc tịch
Khái niệm Quốc tịch là gì?
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý – chính trị có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định cao về mặt thời gian, không bị giới hạn về mặt không gian giữa một cá nhân cụ thể với một chính quyền nhà nước nhất định.
Cơ sở ra đời và tồn tại của Quốc tịch.
Quốc tịch có mối quan hệ khăng khít, không tách rời với nhà nước. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước quyết định sự ra đời và tồn tại của Quốc tịch và ngược lại sự ra đời và tồn tại của Quốc tịch phản ánh sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Chỉ khi thiết lập được chính quyền nhà nước, giai cấp thống trị mới ban hành pháp luật về Quốc tịch nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước của mình với các cá nhân sống trên lãnh thổ của nhà nước. Đồng thời người ta cũng chỉ có thể nói về một nhà nước khi quyền lực chính trị bao trùm lên một lãnh thổ nhất định và những cá nhân trên lãnh thổ đó.
Như vậy, khi một chính quyền nhà nước thành lập sẽ hình thành mối quan hệ pháp lý – chính trị một cách tự động và trực tiếp giữa chính quyền nhà nước và các cá nhân đang sống trên lãnh thổ của chính quyền nhà nước đó. Chỉ có sự ra đời của nhà nước mới làm xuất hiện Quốc tịch, không phải luật về Quốc tịch tạo ra Quốc tịch.
Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Điều đầu tiên trong chương “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Hiến pháp 1992 (Điều 49) quy định vấn đề Quốc tịch: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có Quốc tịch Việt Nam”. Với quy định trên, những nguyên tắc cơ bản về địa vị pháp lý của công dân trong chế độ nhà nước ta đã được ghi nhận. Nó thể hiện các quyền tự do, bình đẳng, không bị áp bức của công dân. Trong lịch sử phát triển nhà nước ta, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được mở rộng và đảm bảo chắc chắn đi đôi với sự tăng cường và mở rộng cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội của chế độ nhà nước ta. Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân ngày được phát triển bằng sự nỗ lực hoạt động của cả Nhà nước lẫn công dân vì sự nghiệp Cách mạng chung.
Mối quan hệ giữa Quốc tịch và các quyền, nghĩa vụ của công dân cho thấy rằng thông qua cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống áp bức, bóc lột nhằm xây dựng chế độ mới dân chủ, công dân nhà nước ta đã trở thành chủ thể của các quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, công dân nước ta có điều kiện để phát triển cá nhân mình một cách toàn diện, trở thành chủ thể thực sự của đất nước.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật Quốc tịch Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, chủ tịch nước Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công- nông đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á. Sự kiện này khẳng định: Việt Nam là quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng, đồng thời cũng đánh dấu sự bắt đầu của chế định “Quốc tịch Việt Nam”. Pháp luật Quốc tịch được hình thành và phát triển gắn liền với tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được khái quát hóa ở hai giai đoạn trước và sau năm 1975:
Giai đoạn trước năm 1975.
Trước nhiệm vụ cấp thiết phải xóa bỏ hệ thống pháp luật thực dân phong kiến và nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật mới để quản lý đất nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã khẩn trương ban hành các văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản về luật Quốc tịch là các sắc lệnh để dựa vào đó xây dựng và giải quyết các vấn đề liên quan tới Quốc tịch Việt Nam.
Về Quốc tịch Việt Nam.
Quốc tịch thể hiện chủ quyền của quốc gia đối với dân cư đồng thời xác định ai, người nào là công dân của quốc gia. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành sắc lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945 quy định về Quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh đảm bảo cho trẻ sơ sinh trên lãnh thổ Việt Nam không bị rơi vào tình trạng không Quốc tịch.
Bên cạnh đó, Điều 1 và Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL quy định những điều kiện và thủ tục liên quan tới vấn đề gia nhập Quốc tịch Việt Nam.
Về việc mất Quốc tịch Việt Nam.
Về thôi Quốc tịch, Điều 2 Sắc lệnh số 51/SL ngày 14/12/1959 quyết định phụ nữ Việt Nam lấy chồng có Quốc tịch nước ngoài muốn theo Quốc tịch của chồng thì trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày ban hành sắc lệnh này phải xin bỏ Quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ Việt Nam cho phép.
Về việc tước Quốc tịch được xác định trong Điều 7 Sắc lệnh số 59/SL.
Các sắc lệnh về Quốc tịch đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển chế định Quốc tịch Việt Nam.
Tuy nhiên, trước năm 1975, do đặc điểm nước ta bị chia cắt làm hai miền và chế độ chính trị khác nhau nên các văn bản pháp luật về Quốc tịch Việt Nam chỉ có hiệu lực hay nói cách khác chỉ được áp dụng ở miền Bắc. Pháp luật Quốc tịch Việt Nam trước năm 1975 đã thể hiện rõ chủ quyền của quốc gia đối với dân cư, quyết định của nhà nước về các vấn đề cơ bản liên quan đến Quốc tịch như: nguyên tắc một Quốc tịch, bảo đảm quyền có Quốc tịch của cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam, bình đẳng giữa các công dân Việt Nam về quyền và nghĩa vụ công dân… Từ đó tạo cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề đặt ra trên thực tế.
Giai đoạn sau năm 1975.
Ta thấy được rằng vấn đề Quốc tịch được nhà nước ta đề cập dưới góc độ là Luật Quốc tịch. Thể hiện như sau:
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988.
Ngày 28/6/1988, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam quy định một cách khá toàn diện các vấn đề Quốc tịch Việt Nam. Để cụ thể hóa, ngày 05/13/1990, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành nghị định số 37/HĐBT. Luật Quốc tịch năm 1988 gồm lời nói đầu và 18 điều đề cập đến 4 nội dung cơ bản: nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc một Quốc tịch, có Quốc tịch Việt Nam, mất Quốc tịch Việt Nam. Luật quốc tịch năm 1988 và Nghị định số 37/HĐBT đã đáp ứng nhu cầu chính trị và pháp lý về Quốc tịch trong giai đoạn mới của đất nước.
Luật Quốc tịch năm 1998.
Luật Quốc tịch năm 1998 ra đời để phù hợp với quy định của Hiến pháp 1992, tạo cơ chế đồng bộ thực hiện một cách nhất quán, triệt để để nguyên tắc một Quốc tịch, quyết định tình trạng không rõ về Quốc tịch Việt Nam do lịch sử để lại trong cộng đồng Việt Nam định cư ở nước ngoài, khắc phục tính đơn giản chung chung của Luật Quốc tịch năm 1988. Luật Quốc tịch năm 1998 gồm 7 chương với 42 điều.
Bên cạnh việc ban hành Luật Quốc tịch 1998, các cơ quan có thẩm quyền còn ban hành các văn bản dưới luật: Nghị định của Chính phủ số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998, Nghị định của Chính phủ số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 sửa đổi một số điều của Nghị địn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status