Tiểu luận Quyền sở hữu nhà ở của người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Quyền sở hữu nhà ở của người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài



MỤC LỤC
A – LỜI NÓI ĐẦU .1
B – NỘI DUNG CHÍNH. .1
I – MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG. .1
1,Khái niệm người nước ngoài .1
2, Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài. .2
3, Khái niêm nhà ở . 3
II – CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHO PHÉP NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỞ HỮU NHÀ TẠI VIỆT NAM . .3
1, Các quy định của pháp luật hiện hành về cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam . 3
1.1 . Đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà tại
Việt Nam . .3
1.2. Điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam 10
1.3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài . . 11
2, Các quy định của pháp luật hiện hành về cho phép người nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam .15
2.1 .Các quy định về đối tượng và điều kiện để người nước ngoài sở hữu nhà tại Việt Nam . .15
2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở là người nước ngoài 17
C – KẾT LUẬN 19
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39264/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

nhà ở sau: nhà ở tự do tạo lập, nhà ở thương mại, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ.
Theo điều1 Nghị quyết 19/2008/QH12, khái niệm nhà ở mà người nước ngoài được mua và sở hữu có phạm vi hẹp hơn rất nhiều theo đó “ Nhà ở mà cá nhân, tổ chức nước ngoài được mua và sở hữu theo quy định của Nghị quyết này là căn hộ chung cư trong dự án phát triển nhà ở thương mại và không thuộc khu vực hạn chế hay cấm người nước ngoài cư trú, đi lại”. Như vậy, khái niệm nhà ở thuộc điều chỉnh của Nghị quyết 19/2008/QH12 có phạm vi hẹp hơn rất nhiều so với khái niệm nhà ở thuộc điều chỉnh của Luật Nhà ở năm 2005. Nhà ở theo Luật Nhà ở được tạo lập từ nhiều hình thức khác nhau, phong phú và đa dạng hơn, sử dụng cho nhiều mục đích hơn.
II – CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHO PHÉP NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỞ HỮU NHÀ TẠI VIỆT NAM.
1, Các quy định của pháp luật hiện hành về cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
1.1 . Đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam.
Hiện nay, vấn đề sở hữu nhà tại- Việt Nam của người Việt Nam định cư tại nước ngoài chịu sự điều chỉnh của Luật đất đai năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành hai luật này.
Theo Điều 121 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 126 Luật Nhà ở 2005 đều cho phép năm nhóm đối tượng đó là:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam;
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có công đóng góp với đất nước;
- Nhà hoạt động văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam;
- Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam
- Các đối tượng khác do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
Ngoài ra, Điều 126 Luật Nhà ở 2005 còn quy định thêm một nhóm là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc một trong các đối tượng trên nhưng đã về Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên.
Theo thời gian, số đối tượng người Việt Nam định cư tại nước ngoài được mua và sở hữu nhà tại Việt Nam không ngừng tăng lên, tuy nhiên quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn còn những điểm bất hợp lý làm hạn chế nhiều quyền được sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Một là, Điều 121 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 126 Luật Nhà ở năm 2005 đã đánh đồng giữa sở hữu nhà ở của công dân Việt Nam với người nước ngoài. Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, công dân Việt Nam có quốc tịch Việt Nam người Việt Nam có quốc tịch Việt Nam còn người gốc Việt Nam là những người trước đây có quốc tịch Việt Nam nhưng hiện tại đã mang quốc tịch nước khác hay là người không quốc tịch. Do đó, về mặt pháp lý, người gốc Việt Nam là người nước ngoài nhưng với quy định tại Luật Nhà ở năm 2005, quyền sở hữu nhà ở giữa công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam là ngang nhau với những điều kiện sở hữu như nhau. Điều này là không công bằng với những người Việt Nam luốc muốn giữ quốc tịch Việt Nam để làm công dân Việt Nam trong khi những người khác đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam.
Hai là , quy định tại Điều 126 Luật Nhà ở năm 2005 không đảm bảo được nguyên tắc hiến định là “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, thể hiện ở công dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài nếu không thuộc diện những nhà đầu tư, nhà khoa học … thì sẽ không được sở hữu nhà ở một cách tự do về số lượng như công dân Việt Nam định cư ở trong nước. Nói cách khác , theo quy định này thì chỉ những công dân định cư ở nước ngoài mang lợi ích về cho đất nước mới được quyền sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam. Điều này có phần vô lý vì trong khi có những người Việt Nam định cư ở nước ngoài không mang quốc tịch Việt Nam thì được phép mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam người mang quốc tịch Việt Nam lại không có quyền đó. Trong khi đó, quyền sở hữu nhà ở của mọi công dân Việt Nam đã được quy định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992.
Vì vậy, để khắc phục những bất cập trên, Quốc hội đã ban hành Luật số 34/2009/QH12 về sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai. Theo đó, Điều 126 Luật Nhà ở năm 2005 đã được sửa đổi như sau:
“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại ViệtNam:
Người có quốc tịch Việt Nam;
Người Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo
Pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hóa, người có kĩ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hay chồng là công dân Việt Nam sinh sống trong nước.
2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại Điểm b Khoản1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riên lẻ hay một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.”
Để đảm bảo hiệu quả thực thi Luật Nhà ở, ngày 23 tháng 6 năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 71/2010/NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (có hiệu lực từ ngày 08 tháng 08 năm 2010) thay thế Nghị định 90/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 09 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành có tất cả là sáu đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam:
Thứ nhất, nhóm người có quốc tich Việt Nam: Đây là những công dân Việt Nam hiện đang công tác, lao động, học tập ở nước ngoài như du học sinh, những người đi xuất khẩu lao động… Các đối tượng này hiện đang chiếm một số lượng khá lớn trong số người Việt Nam định cư tại nước ngoài hiện nay (chiếm khoảng 70% trong số gần 4 triệu kiều bào). Việc tách bạch đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam được sở hữu nhà ở như công dân trong nước thực sự là một quy định rộng mở để số lượng đông đảo những người này được sở hữu nhà tại Việt Nam mà không cần đáp ứng những điều kiện khắt khe như trước đây, thu hút kiều bào có trình độ chuyên môn, có kĩ năng , nghiệp vụ, khả năng quản lý, điều hành trở về quê hương cống hiến cho đất nước. Đồng thời quy định mới này cũng đảm bảo được sự công bằng trong vấn đề sở hữu nhà ở giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với công dân Việt Nam ở trong nước.
Thứ hai, đối tượng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam: Theo Điểm b Khoản 2 Điều 66 Nghị định 71/2010/NĐ – CP, đây là ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status