Tiểu luận Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện và thực tiễn áp dụng - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện và thực tiễn áp dụng



Hiện nay, các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện được quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTDS. Theo đó, một trong những trường hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện đó là người khởi kiện khi chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Vấn đề này hiện nay đang còn có những vấn đề phát sinh từ các quy định của pháp luật liên quan và thực tiễn áp dụng.
Một vấn đề có nhiều ý kiến xoay quanh đó là nhiều trường hợp luật cho phép người dân có thể lựa chọn giữa hai thủ tục khiếu nại hay khởi kiện ra tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình song hiện nay nhiều tòa án vẫn buộc đương sự phải tiến hành thủ tục khiếu nại và chỉ khi có kết quả trả lời của các cơ quan chủ quản thì mới được khởi kiện ra tòa án
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39170/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ệu khởi kiện đã hết. Việc xác định thời hiệu khởi kiện tương tự như việc xác định thời hiệu khởi kiện để thỏa mãn về điều kiện thụ lý vụ án dân sự đã nêu ở trên.
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hay không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là người không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 161 và Điều 162 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 1 và mục 2 Phần I của Nghị quyết 02/2006.
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hay quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án đã bị Tòa án bác đơn mà đương sự có quyền khởi kiện lại; ví dụ như: ly hôn, thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hay vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điểu kiện khởi kiện.
- Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không đến tòa làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;
- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện, là trường hợp các đương sự có thoả thuận hay pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó, ví dụ như: người chồng nộp đơn ly hôn khi người vợ đang mang thai hay nuôi con dưới 12 tháng tuổi...
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; là trường hợp không thuộc một trong các tranh chấp quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS, hay pháp luật không quy định giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, ví dụ: đương sự gửi đơn đến tòa án không tuân theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 164 BLTTDS mà tòa án đã báo cho người khởi kiện biết mà họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án.
Phần lớn các trường hợp trả lại đơn khởi kiện được quy định trong BLTTDS nêu trên đều đã được Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trước đây quy định, chỉ có ba trường hợp mới cần lưu ý gồm:
- Người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn theo pháp luật quy định. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trước đây cũng ấn định thời hạn một tháng để người khởi kiện thực hiện nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí nhưng lại không quy định hậu quả pháp lý của việc không nộp tiền tạm ứng án phí trọng hạn luật định. Quy định mới này nhằm mục đích buộc người khởi kiện phải cân nhắc kỹ hơn trước khi nộp đơn khởi kiện.
- Người khởi kiện chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Có quan điểm cho rằng đây là trường hợp mà trước khi khởi kiện đến tòa án vụ việc phải được tiến hành hòa giải trước, tòa án chỉ thụ lý khi việc hòa giải không thành như: Tranh chấp quyền sử dụng đất; các tranh chấp lao động cá nhân hay tranh chấp lao động tập thể...Tuy nhiên có ý kiến cho rằng quy định này của BLTTDS có nội dung rộng hơn, bởi vì theo quy định của pháp luật thì có những trường hợp người khởi kiện nếu không đáp ứng các điều kiện khác thì cũng không được khởi kiện, Ví dụ, người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi người vợ có thai hay đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hay trường hợp tòa án đã bác đơn xin ly hôn nhưng chưa đủ 1 năm người bị bác đơn đã nộp đơn khởi kiện lại,..(() Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, ThS. Lê Thị Bích Lan, thẩm phán Tòa dân sự Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Tạp chí Luật học – Đặc san về BLTTDS 2004.
)Quan điểm này là hợp lý và phù hợp với các nội dung quy định của pháp luât hiện hành.
- Người khởi kiện không bổ sung đơn khởi kiện trong thời hạn theo quy định của pháp luật. Đây là quy định hoàn toàn mới có ý nghĩa buộc người khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh ngay từ những bước đầu tiên của quá trình tố tụng tại tòa án, bởi các quy định của BLTTDS hiện nay đề cao vai trò, nghĩa vụ chứng minh của đương sự, việc thu thập chứng cứ của tòa án là hạn chế không phải trường hợp nào tòa án cũng thu thập chứng cứ.
Khi trả đơn khởi kiện cho người khởi kiện, tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện để người khởi kiện có căn cứ khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện. Đây là quy định mới giúp cho các đương sự thực hiện quyền khiếu nại khi họ bị tòa án trả lại đơn khởi kiện không đúng. Theo Điều 170 BLTTDS thì người khởi kiện có quyền khiếu nại với chánh án tòa án đã trả lại đơn khởi kiện trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày họ nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo do tòa án trả lại. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, chánh án phải ra một trong các quyết định sau:
Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành thụ lý vụ án.
Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
Sau hơn 6 năm thi hành BLTTDS, số lượng các vụ kiện được khởi kiện và giải quyết tại các Tòa án trong cả nước đều tăng cao, trong đó các tranh chấp về thừa kế, đất đai, nhà ở, hợp đồng, hôn nhân & gia đình...chiếm tỷ lớn. Các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, kinh doanh thương mại, lao động hay các tranh chấp có yêu tố nước ngoài cũng ngày càng gia tăng. Cụ thể là:
Năm
Số vụ việc đã thụ lý
Số vụ việc đã giải quyết
Đạt tỷ lệ
2005
152.819
132.125
86.5%
2006
164.888
146.823
89%
2007
188.992
171.681
91%
2008
192.336
174.768
91%
2009
214.174
194.358
90.7%
2010
215.714
194.372
90%
(() Báo cáo số 09/BC-TANDTC ngày 9/8/2010 của TAND tối cao tổng kết 5 năm thi hành BLTTDS. Lấy từ:
)
Trong đó, các vụ án dân sự, hôn nhân & gia đình thường chiếm phần lớn trong tổng số các vụ án được giải quyết. Năm 2005, Tòa án các cấp đã giải quyết được 129.926 vụ về dân sự, hôn nhân & gia đình trong tổng số 132.125 vụ việc dân sự đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 98.3%. Năm 2006 số lượng này là 143.580 vụ trong tổng số 146.823 vụ đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 97.8%. Số lượng các vụ án kinh doanh thương mại và lao động đã giải quyết được tuy chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng số lượng hàng năm đều có sự tăng lên rõ rệt.
Về kinh doanh thương mại: Năm 2007 TAND các cấp đã giải quyết được 4206 vụ trong tổng số 4789 vụ, đạt tỷ lệ 87.7%. Năm 2008 giải quyết được 5343 vụ trong tổng số 6034 vụ án, đạt 88.5%. Năm 2009 giải quyết được 969 vụ án trong tổng số 1043 vụ, đạt 92.9%. Năm 2007 giải quyết được 1211 vụ án trong tổng số 1275 vụ, đạt 95%. Năm 2008 giải quyết được 1828 vụ trong tổng số 1907 vụ, đạt 96%.
Như vậy, có thể thấy thấy số lượng các vụ án về dân sự nói chung đã có sự tăng lên về số lượng thụ lý và giải quyết, việc thực hiệ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status