Tiểu luận Giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng vay - pdf 13

Link tải luận văn miễn phí cho ae
A. LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề vay mượn tài sản là một trong những vấn đề thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Do nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi kinh tế của cả bên cho vay và bên đi vay nên thường phát sinh nhiều tranh chấp trong hợp đồng vay. Ngày nay người cho vay không đơn thuần cho vay vì tình cảm mà họ còn nhằm mục đích thu lãi từ việc cho vay đó. Giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng vay như thế nào là việc mà các cơ quan tư pháp phải suy nghĩ, áp dụng đúng các quy định của pháp luật để cho các bên tranh chấp có câu trả lời thỏa đáng. Trên cơ sở tóm tắt và nhận xét các vụ việc thực tế nhóm 1 xin tìm hiểu vấn đề này rõ hơn.
B. NỘI DUNG
I. Cở sở lý luận.
Khái niệm: “ hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hay pháp luật có quy định”. (Điều 471, bộ luật dân sự 2005).
Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy hợp đồng vay tài sản có những đặc điểm sau:
Là hợp đồng có mục đích chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vay.
Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vay là thời điểm bên vay nhận tài sản đó.
Hợp đồng vay là hợp đồng ưng thuận: hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm giao kết. Tức là vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận đề nghị hay nếu hợp đồng được giao kết bằng miệng thì thời điểm giao kết là thời điểm các bên thỏa thuận về nội dung hợp đồng hay thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản. Tuy nhiên thực tế cho thấy, nếu hợp đồng vay được giao kết dưới hình thức văn bản thì khi có tranh chấp xảy ra sẽ có cơ sở để giải quyết còn hợp đồng được giao kết dưới hình thức miệng thì khi tranh chấp khó có thể chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng. Nhưng dù là hình thức nào thì hợp đồng vay cũng là hợp đồng ưng thuận.
Hợp đồng vay là hợp đồng song vụ: thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực cũng đồng thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản cho bên vay, đầy đủ đúng chất lượng và số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thỏa thuận. Nếu bên cho vay biết tài sản không đảm bảo chất lượng mà không báo cho bên vay biết thì phải bồi thường thiệt hại cho bên vay (trừ trường hợp bên vay biết mà vẫn nhận tài sản đó). Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp bên vay đồng ý. Đồng thời bên vay có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay đúng thời gian, địa điểm, cách và sử dụng tài sản vay đúng thỏa thuận.
Hợp đồng vay tiền có thỏa thuận lãi suất là hợp đồng vay tài sản có đối tượng cụ thể là tiền. Ngoài ra các bên có thỏa thuận lãi và lãi suất là một quy định thuộc nội dung của hợp đồng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, hợp đồng vay tài sản nói chung mà phổ biến là vay tiền thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu để huy động vốn trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên số vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản có xu hướng tăng và ngày càng phức tạp. Các hoạt động cho vay nặng lãi và một số biến tướng của hợp đồng này đang trở thành vấn nạn của xã hội mà lỗi một phần không nhỏ thuộc về quy định của pháp luật. Để có một cái nhìn sâu sát hơn hơn về tranh chấp hợp đồng vay, phần tiếp theo đây xin đi vào tìm hiểu 3 vụ việc thực tế về tranh chấp hợp đồng vay có thỏa thuận lãi.
II. Ba vụ việc thực tế.
1. Vụ án 1.
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Ngọ ( sinh năm 1953); trú tại nhà số 39 Tôn Đức Thắng, quận Lê Chân, TP. Hải Phòng.
Bị đơn: Bà Lưu Thị Mến ( sinh năm 1950), ủy quyền cho ông Nguyễn Hùng Đèn ( là chồng); trú tại nhà số 21/27 Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng.
Tóm tắt vụ án:
Tháng 9 năm 2006, bà Đỗ Thị Mai có hỏi vay tiền bà Lưu Thị Mến để đi chuộc xe máy, bà Mến không có tiền nên đã đồng ý cho bà Mai mượn hồ sơ nhà đất của mình tại lô đất số 78 xã Đông Hải, huyện An Hải, TP Hải Phòng để bà Mai dùng giấy tờ nhà đi vay người khác. Bà Mai đã nhờ bà Tình giới thiệu với bà Ngọ để vay 40 triệu đồng, bà Ngọ đồng ý. Tại nhà bà Tính, bà Mai đã viết giấy biên nhận vay tiền với nội dung: tui là Lưu Thị Mến có cầm giấy tờ nhà thế chấp vay tiền của bà Ngọ 40.000.000 đồng, hẹn hai tháng sẽ trả cả gốc và lãi, có một số giấy tờ kem theo là chứng minh thư nhân dân mang tên Lưu Thị Mến; quyết định giao đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Mến; thông báo về cải tạo, sửa chữa, xây dựng nhà ở. Sau khi viết xong bà Mai đọc cho mọi người cùng nghe, bà Mến xác nhận có đọc lại và ghi tên “Lưu Thị Mến” dưới chỗ người vay tiền. Người làm chứng là Đỗ Thị Mai và Lê Thị H.
Sau khi có giấy biên nhận vay tiền, bà mai đã giả mạo chữ kí của bà Mến để cùng bà Tính (không có bà Mến đi cùng) đến nhà bà Ngọ để giao giấy tờ và nhận 40.000.000 đồng mà không có giấy uỷ quyền của bà Mến. Lãi suất hai bên thoả thuận là 5%/ tháng. Ngày 29 -10-2006, bà Tính đưa cho bà Ngọ 2.000.000 đồng nói là bà Mến trả bà Ngọ tiền lãi. Hết hạn theo cam kết, bà Ngọc đến đòi thì bà Mến cho rằng bà không vay tiền của bà Ngọ mà là bà Mai vay. Bà Mai đã bỏ chốn, ngày 17-1-2007, bà Ngọ khởi kiện yêu cầu bà Mến trả 40.000.000 đồng cùng tiền lãi.
Theo bà Mến thì lúc đầu bà không đồng ý với nội dung như giấy biên nhận, nhưng bà Mai và bà Tính nói phải ghi như vậy người ta mới đồng ý cho vay tiền vì giấy tờ đứng tên bà. Do không đồng ý với nội dung của giấy biên nhận nên bà đã không kí tên mình sau khi chữ kí “ Lưu Thị Mến” dưới chỗ người vay tiền, chứ không kí tên.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 15-6-2007, Toà án nhân dân quận Ngô Quyền đã quyết định: Buộc bà Mến phải trả cho bà Ngọ 45.000.000 đồng tiền gốc và lãi; bà Ngọ phải trả bà Mến toàn bộ giấy tờ nhà.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 43/DSST ngày 25/9/2007, toà án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định: Y án sơ thẩm.
Bà Mến khiếu nại.
Tại công văn số 178 ngày 11/12/2007 công văn số 2032 ngày 5- 1- 2008, Viện kiểm sát nhân dân trả lời bản án dân sự phúc thẩm số 43/DSPT ngày 25- 9-2007 cảu toà án nhân dân Thành phố Hải Phòng là có căn cứ.
Nhận xét của nhóm:
 Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chấp nhận đơn kiện của bà Ngọ, buộc bà Mến phải trả bà Ngọ 45.000.000 đồng gồm cả gốc lẫn lãi là hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Vì:
 Thời điểm bà Mai vay tiền là tháng 9 năm 2006; thời đểm bà Ngọ gửi đơn yêu cầu bà Mến phải trả tiền là 17- 1-2007; Toà án cấp sơ thẩm xét xử vụ việc này vào ngày 15-6-2007,cấp phúc thẩm là ngày 15-9-2007 trên cơ sở áp dụng bộ luật dân sự năm 2005 là hoàn toàn đúng với quy định pháp luật.
 Bà Mến đã cho bà Mai mượn giấy tờ nhà đất của mình để vay tiền, không những vậy giấy biên nhận vay tiền còn có chữ kí của bà Mến. Bà Mến cho rằng đó không phải chữ kí của mình nhưng lại không chứng minh được. Như vây, xét về mặt pháp luật, bà Mến phải là người chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc hhoàn trả bà Ngọ số tiền 45.000.000 đồng bao gồm cả tiền gốc và lãi.
 Còn trách nhiệm giữa bà Mến và bà Mai thì do hai người tự giải quyết. Nếu không giải quyết được thì bà Mến có thể gửi đơn khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết. Để bà Mai phải hoàn trả lại số tiền mà bà trả cho bà Ngọ thì bà Mến phải chứng minh được chữ kí tên bà dưới chỗ người vay tiền hoàn toàn giả mạo.

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 1
I. Cở sở lý luận. 1
II. Ba vụ việc thực tế. 2
1. Vụ án 1. 2
2. Vụ án 2. 4
3. Vụ án 3. 6
III. Nhận xét của nhóm về quy định hiện hành. 9
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11


tLtyumd01C22hST
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status