Tiểu luận Mồ mả và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Mồ mả và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả



MỤC LỤC:
 
Trang
A. MỞ ĐẦU.2
B. NỘI DUNG.2
I. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.2
1. Điều kiện phát sinh trach nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hơp đồng.2
2. Năng lực và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.4
II./ Tìm hiểu về mồ mả và hiện tượng xâm phạm mồ mả hiện nay.
1. Tìm hiểu về mồ mả.
2. Hiện tượng xâm phạm mồ mả hiện nay.
III./Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả.
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản của người
xâm phạm mồ mả.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về mặt tinh thần
người thân thiết của cá nhân có mồ mả bị xâm phạm.
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do bị nhầm lẫn mà
xâm phạm mồ mả.
C. KẾT LUẬN.16
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.17
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39621/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

/. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong luật dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng với mọi cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra khi có:
+ Điều kiện xảy ra:
Đây là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không thể đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có đẩy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân hay tổ chức. Trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có thiệt hại dù không nghiêm trọng cũng phải bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện băt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì không phải bồi thường.
+ Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Hành vi gây thiệt hại thông thường được thực hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó. Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp, nếu người thực hiện hành vi đó theo nhiệm mà pháp luật hay nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện các hành vi đó. Trong trường hợp này người gây thiệt hại không phải bồi thường.
+ Có lỗi của người gây thiệt hại.
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi Điều 604 BLDS quy định: “ người nào do lỗi cố ý, hay vô ý.....mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi trong trường hợp họ có đầy đủ năng lực chủ thể. Đối với những người không có khả năng nhận thức, và không làm chủ được hành vi của mình được coi là không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Những người chưa có năng lực hành vi hay bị mất năng lực hành vi, không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì họ không phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp cha, mẹ người giám hộ, bệnh viện, trường học là những nguwoif theo quy định của pháp luật phải quản lý, chăm sóc, giáo dục được suy đoán là có lỗi khi thực hiện các nghĩa vụ nêu trên do đó họ phải chịu trách nhiệm về lỗi của họ.
Đối với pháp nhân, cơ quan tiến hành tố tụng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại là lỗi của nhân viện các cơ quan này trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật, hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 604 BLDS dưới dạng: “ Người nào .....xâm phạm.....mà gây thiệt hại” thì phải bồi thường.
2 . Năng lực và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường.
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự,
BLDS quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản, khả năng bồi thường thiệt hại của cá nhân.
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra.
-Người dưới 18 tuổi là những người không có,hay có không đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Vì vậy cha mẹ là người phải bồi thường thiệt hại do con họ gây ra.
-Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện thì quản lý trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên mà không có lỗi thì cha, mẹ, người giám hộ phải bồi thường.
b. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
BLDS đã quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại tại Điều 605. Nguyên tắc chung là thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp thời. Mức bồi thường thiệt hại có thể do các bên thỏa thuận hay do Tòa án quy định. Tuy nhiên mức bồi thường thiệt hại đã thỏa thuận và quy định có thể bị thay đổi nếu mức bồi thường “không còn phù hợp với thực tế”.
II/. Tìm hiểu về mồ mả và hiện tượng xâm phạm mồ mả hiện nay
Tìm hiểu về mồ mả.
Từ trước đến nay pháp luật nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể về khái niệm mồ mả. Vì đây là vấn đề thiêng liêng thuộc tín ngưỡng, tôn giáo của từng vùng, miền. Mỗi một vùng, miền, dân tộc có cách hiểu và suy nghĩ khác nhau về mồ mả. Họ có cách thờ cúng và chôn cất người chết khác nhau. Và việc chôn cất cũng được tiến hành theo cách thức và nghi lễ khác nhau. Nhưng đều có cách hiểu tương tự nhau về mồ mả đó là :“nơi được dùng để chôn cất thi thể, hài cốt hay tro hài cốt của cá nhân”. Vì vậy mồ mả được người dân quan tâm như một việc tôn thờ thuộc về tín ngưỡng, tâm linh, nó gắn liền với nhân thân và thi thể của người đã chết theo quan niệm “mồ yên, mả đẹp” của người dân thì những người thân của người xấu số đều muốn cho người đã khuất một ngôi nhà thứ hai ở thế giới bên kia thật sự yên đẹp. Do đó việc chôn cất và tạo mồ mả đặc biệt được quan tâm. Có nơi mồ mả được tạo nên thành một nấm mồ bằng đất, có nơi lại được tạo nên bằng việc xây mộ. Điều đó tùy thuộc vào phong tục tập quán của từng vùng, từng địa phương. Việc mồ mả được xây dựng ở đâu cũng theo tập quán, tín ngưỡng của từng vùng. Có nơi mồ mả của người đã khuất được xây dựng ở những vùng đất vắng xa dân cư và phân bố tập trung tạo thành nghĩa địa, họ thường chôn cất theo cách tập trung từng gia đình, dòng họ và có tường rào bao quanh ngôi mộ, hay chôn cất liền kề theo thứ tự thời gian. Những cách thức đó chủ yếu chỉ có ở vùng núi nông thôn, có những vùng dân tộc thiểu số theo phong tục tập quán mồ mả còn được phân bố ở những nơi như trên núi, chân núi, bên dòng suối, trong hang đá, hay dưới những cánh đồng... còn đối với một số vùng miền khác thì mồ mả được xây dựng liền kề nhau chiếm phần ít diện tích hơn. Vì họ xây dựng ở những nghĩa địa tạp trung theo quy định của khu vực đó, chứ không phân bố theo gia đình, dòng họ. Ngoài ra mồ mả cuả các liệt sĩ, các chiến sĩ cách mạng còn được xây dựng ở các nghĩa trang như nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang liệt sĩ...
Nói tóm lại, mồ mả là nơi chôn cất, yên nghỉ của người đã khuất theo quan niệm của dân gian.
2.Hiện tượng xâm phạm mồ mả.
Mồ mả gắn liền với nhân thân người đã khuất, do đó trong nhân dân luôn tôn thờ và bảo vệ mồ mả nó như là biểu tượng thiêng liêng mà người sống bảo vệ. Tuy nhiên, trên thực tế mồ mả vẫn bị xâm phạm do ý thức của con người, có thể là vô ý hay cố ý, có thể do xúc vật thả rông theo phong tục tập quán hay do việc cày cấy của một số địa phương. Bên cạnh đó lý do chính xâm phạm đến mồ mả là vì trong điều kiện...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status