Tiểu luận Hậu quả pháp lý của việc thực hiện tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh 2004 - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Hậu quả pháp lý của việc thực hiện tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh 2004



Nhà nước không cấm các doanh nghiệp tăng trưởng để có vị trí thống lĩnh, độc quyền nhưng nhà nước sẽ kiểm soát việc hình thành vị trí đó diễn ra như thế nào? Doanh nghiệp hình thành sau các hoạt động tập trung kinh tế có lợi dụng vị trí đó để gây hạn chế cạnh tranh hay không? Nếu có khả năng gây hạn chế cạnh tranh sẽ bị cấm các hoạt động tập trung kinh tế. Mục đích của việc cấm tập trung kinh tế trong các trường hợp này là nhằm ngăn cản việc hình thành một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị trí thống lĩnh này gây hậu quả lớn đối với nền kinh tế. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam kiểm soát và cấm tập trung kinh tế theo hướng hạn chế những tác động tiêu cực của tập trung kinh tế đến thị trường, bởi vì ngay sau khi tập trung kinh tế được thực hiện , cơ cấu thị trường thay đổi.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39572/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Tập trung kinh tế là hiện tượng thuộc về quyền tự do của các doanh nghiệp, theo các nguyên lý của kinh tế thị trường mà ở đó quyền tự do khế ước, tự do lập hội... được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Điều này, ở nước ta được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự và trong Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, tự do suy cho cùng cũng chỉ là “nhận thức được quy luật”, hay nói khác đi, tự do nào cũng cần có giới hạn. Tiếng gọi của lợi nhuận nhiều khi đã làm cho các doanh nghiệp vô tình hay cố ý vượt qua biên giới của quyền tự do đó. Và vào điểm giới hạn đó, pháp luật cạnh tranh xuất hiện và như thế, tính chất và mục đích của pháp luật cạnh tranh là khác hẳn với pháp luật dân sự, thương mại, doanh nghiệp - những pháp luật tạo tiền đề của tự do để tăng cường, gia tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn pháp luật cạnh tranh thì không. Pháp luật cạnh tranh chỉ đảm bảo cho các doanh nghiệp sử dụng đến tận cùng những khả năng sẵn có của mình bằng những cách chân chính. Với những quy định như thế thì tập trung kinh tế để lại những hậu quả pháp lý nhất định. Vậy hậu quả pháp lý đó là gì? Em xin chọn để tài “Hậu quả pháp lý của việc thực hiện tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh 2004” để làm bài tập lớn học kì. Do thời gian có hạn và kiến thức chưa sâu sắc nên bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Em rất miong được các thầy cô trong tổ bộ môn chỉ dạy them để em hoàn thiện bài làm của mình.
Em xin cảm ơn!
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Một số vấn đề lý luận chung về tập trung kinh tế.
1. Khái niệm tập trung kinh tế.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mang tính khái quát để định nghĩa hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hình thức tập trung kinh tế. Theo điều 16, điều 17 Luật cạnh tranh 2004 thì tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp hợp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiêp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Theo đó, các hình thức tập trung kinh tế ở Việt Nam nhìn chung giống với các hình thức tập trung kinh tế theo pháp luật các nước trên thế giới và cũng là con đường dẫn tới củng cố và gia tăng sức mạnh thị trường.
2. Đặc điểm pháp lý của tập trung kinh tế.
Theo quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam, tập trung kinh tế có một số đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
- Thứ nhất: chủ thể thực hiện hành vi tập trung kinh tế là các doanh nghiệp.
Tham gia một vụ tập trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh thì ít nhất phải có hai chủ thể tồn tại độc lập tập trung sức mạnh với nhau.Theo quy định của Luật cạnh tranh 2004, chủ thể tham gia tập trung kinh tế có thể là tổ chức, cá nhân kinh doanh (được gọi chung là doanh nghiệp). Tuy nhiên theo pháp luật hiện hành tùy thuộc vào hình thức tập trung kinh tế mà chủ thể thực hiện phải đáp ứng điều kiện nhất định.
Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thể là các doanh nghiệp hoạt động trên cùng hay không cùng trên thị trường liên quan. Tuy nhiên, theo tinh thần của Luật cạnh tranh 2004, hiện nay Luật mới chỉ tập trung kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế giữa các doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị trường liên quan.
- Thứ hai: hành vi tập trung kinh tế được thực hiện dưới những hình thức nhất định.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam tập trung kinh tế diễn ra dưới các hình thức: sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp. mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp. Các hình thức này đều có bản chất các doanh nghiệp đã tồn tại trên thị trường liên kết khả năng kinh doanh bằng cách chủ động tích tụ các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực quản lý… mà họ đang nắm giữ riêng lẻ để hình thành một khối thống nhất có quy mô hoạt động lớn hơn trước.
- Thứ ba: hậu quả của tập trung kinh tế dẫn đến hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh, thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp tham gia hoạt động tập trung kinh tế đã tích tụ nguồn lực tài chính, kỹ thuật, lao động, năng lực tổ chức quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp riêng lẻ để hình thành, tập đoàn kinh tế lớn mạnh hơn. Đặc điểm này sẽ phân biệt tập trung kinh tế dưới góc độ pháp lý khác với việc tích tụ tư bản trong kinh tế học.
II. Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế.
1. Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi thực hiện.
Các nước khác nhau có cách thức kiểm soát tập trung kinh tế khác nhau, một số nước đã thiết lập một hệ thống thong báo trước khi thực hiện các vụ sáp nhập như Pháp, Braxin, Canada…Một số nước thiết lập thông báo sau khi thực hiện tập trung kinh tế như Achentinna, Nhật Bản, Tây Ban Nha…Một số nước báo cáo việc kiểm so át sáp nhập chỉ đối với các trường hợp tình nguyện thông báo như Na Uy, Vương quốc Anh…Nhưng hầu hết các nước quy định nghĩa vụ phải thông báo khi các doanh nghiệp liên quan hay dường như có một mức độ tập trung kinh tế nhất định biểu hiện qua tỷ lệ phần trăm (%) thị phần hay một định lượng doanh thu cụ thể.
Việt Nam áp dụng kiểm soát tập trung kinh tế theo hình thức tiền kiểm và yêu cầu trong trường hợp các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi thực hiện hành vi tập trung kinh tế. Trường hợp này bị áp dụng thủ tục kiểm soát bởi vì khi một doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên qua sẽ bị coi là có vị trí thống lĩnh và cần được kiểm soát.
Như vậy, nếu tập trung kinh tế thuộc diện phải thông báo thì thủ tục xem xét các vụ tập trung kinh tế bao gồm các bước:
- Bước 1: Thông báo tập trung kinh tế.
Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì thay mặt hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Trường hợp thị phần kết hợp kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hay trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy dịnh của pháp luật thì không phải thông báo.
Hồ sơ thông báo tập trung kinh tế bao gồm:
+ Văn bản thông báo việc tập trung kinh tế theo mẫu do cơ quan quản lý cạnh tranh quy định;
+ Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế;
+ Báo cáo tài chính trong hai năm liên tiếp gần nhất của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có xác nhận của tổ chức kiểm toán theo quy định của pháp luật;
+ Danh sách các đơn vị phụ thuộc của từng doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế;
+ Danh sách các loại hàng hóa, dịch vụ mà từng doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế và các đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp đó đang kinh doanh;
+ Báo cáo thị phần trong hai năm liên tiếp g
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status