Tìm hiểu cấu trúc thành ngữ Hán - Việt - pdf 13

Download miễn phí Đề tài Tìm hiểu cấu trúc thành ngữ Hán - Việt



MỤC LỤC
 
Trang
A. Phần mở bài 1
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Đối tượng và mục đích của đề tài 2
III. Nhiệm vụ nghiên cứu,giới hạn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 2
B. Phần nội dung 4
I. Cơ sở Khoa học 4
II. Cấu trúc chuyên đề 8
III. Nội dung 9
1.Vài nét khái quát về thành ngữ Hán - Việt 9
2. Cấu trúc thành ngữ Hán - Việt 13
3. Đặc điểm cấu trúc thành ngữ Hán - Việt 26
4. Đề suất một số ý kiến 27
C. Kết luận 29
D. Tài liệu tham khảo. 30
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39905/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

" do Nguyễn Trãi soạn, là được viết theo thể tứ lục này: "Thừa thắng trường khu, Tây kinh kí ki ngã hữu - Tuyển phong tiến thủ, Đông đô tận phục cựu phong" (nghĩa: thừa thắng ruổi dài, Tây kinh quân ta chiếm lại - Tuyển binh tiến đánh, Đông đo đất cũ thu về).
Văn biền ngẫu được tiếp nhận ở văn học Việt Nam, cả trong những sáng tác viết bằng chữ Hán lẫn những sáng tác bằng chữ Nôm. Ngay ở câu văn xuôi hiện đại Việt Nam cũng còn những dấu vết của lối tổ chức câu văn theo kiểu biền ngẫu.
Thành ngữ không có ngữ điệu. Thành ngữ chỉ là một phần của câu tục ngữ, hay ca dao, hay câu thơ, câu văn nên không có vần có điệu như tục ngữ Thành ngữ cũng có các hình thức mô tả, so sánh và ẩn dụ như phú, tỉ và hứng trong ca dao. Phú là mô tả, kể lại sư việc gì đó. Đa số thành ngữ dựa trên điển tích đều thuộc hình thức phú: Châu Về Hiệp Phố, Kết Cỏ Ngậm Vàng, Ông Tơ Bà Nguyệt, vv.. Ngoài ra những thành ngữ như ăn cơm nhà vác ngà voi, bàn tay có ngón ngắn ngón dài, cha nào con nấy, vv. đều thuộc thể phú.
Thứ đến là hình thức tỉ. Tỉ là ví hay so sánh. Dùng một vật này so với vật kia rồi hàm ý sánh hơn sánh thiệt, khen hay chê, cho thấy tốt hay xấu. Chẳng hạn như ác như quỷ, cá chậu chim lồng, đen như cột nhà cháy, khổ như chó, cực như trâu, vv. đều thuộc tỉ.
Sau cùng là hứng. Hứng là hình thức ẩn dụ. Các thành ngữ như cá gặp nước, như rồng gặp mây, của tiên dâng (đem) cho người phàm, cưỡi hạt chầu trời, chuyện ong bướm, vv…
Cả ba hình thức này hỗ trợ cho nhau và liên kết với nhau làm cho ý nghĩa của thành ngữ vừa sâu vừa rộng.
Thứ đến, thành ngữ chỉ mang ý nghĩa về sự mở rộng của từ, ngữ nên nó được xem là “từ đồng nghĩa”. Tức là một ý nhưng có nhiều cách nói, và thành ngữ là một trong các cách đó. Vì thế thành ngữ được xem là một hình thức Định Danh.
Phần lớn thành ngữ Hán - Việt chịu nhiều ảnh hưởng Nho học, cả hình thức lẫn nội dung.
Theo kết quả thống kê và nghiên cứu đa số thành ngữ gồm có 4 chữ, 5 chữ, 8 chữ, 12 chữ, nhưng tỉ lệ 4 chữ chiếm tới 75% đến 80% và được kết cấu ngữ pháp theo các dạng cụm từ.
Tóm lại, từ những cơ sở lý luận trên sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu của em có cơ sở có hướng đi đúng hơn.
2. Cơ sở thực tiễn
Từ cơ sở lý luận đó ta thấy các thành ngữ Hán - Việt là loại thành ngữ rất khó sử dụng, nó đã được du nhập vào Việt Nam rất lâu, có cấu trúc phức tạp, chiếm một tỉ lệ lớn trong ngôn ngữ dân tộc, tuy được sử dụng khá nhiều trong cuộc sống, trong sáng tác, trong giảng dạy, nhưng vì những đặc điểm đó mà trong thực tiễn không ít người sử dụng sai ý nghĩa của nó, sai cấu trúc như:
«Trăm» trong «trăm hay không bằng tay quen» cũng là một từ cổ thường bị hiểu nhầm là mười lần mười. Thực ra đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 譫 mà âm Hán - Việt hiện đại là chiêm, có nghĩa là nói nhiều, nói liến thoắng hay nói sảng trong khi bệnh. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên đã giảng rằng trăm là một từ thuộc tiếng địa phương có nghĩa là «nói nhanh một thứ tiếng nước ngoài». A. de Rhodes cũng có ghi nhận từ này (dưới dạng trăm) trong Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh và giảng rằng: «Trăm tiếng, nói trăm tiếng» là «falar muitas linguas» (BĐN), «variis linguis loqui» (LT), nghĩa là nói nhiều thứ tiếng. Vậy «trăm» là nói nhiều và nhanh. Nghĩa này của nó còn được bằng câu «trăm hay xoay vào lòng» mà Nguyễn Lân giảng là «người nào cũng nghĩ rằng mình hay, mình giỏi» (có lẽ vì cho rằng một trăm cái hay của cá nhân đều được ghi gói kỹ trong lòng của đương sự chăng?). Câu này thực ra có nghĩa là hễ khéo nói thì dễ gây được lòng tin nơi người khác. Từ trên đây suy ra, «trăm hay không bằng tay quen» có nghĩa là nói lý thuyết suông dù có hay đến đâu cũng không bằng thực hành thông thạo.
«Già kén kẹn hom» là một lối nói của nghề nuôi tằm. Đây là một câu đúc kết kinh nghiệm mà mục đích là nhắc nhở người nuôi tằm chớ để cho kén quá già, vì nếu kén quá già thì sẽ kẹn, nghĩa là không róc ra khỏi hom, tức là những thanh tre ngang dọc đan ken vào nhau để làm thành cái né tằm. câu này từ lâu đã bị tách khỏi nghề nuôi tằm nên không còn được hiểu đúng với ý nghĩa ban đầu của nó nữa. Ngày nay, người ta hiểu «già kén» là kén chọn quá lâu ngày, rồi không cần biết «kẹn hom» có nghĩa chính xác và cụ thể là gì, người ta hiểu chung chung cả câu thành ngữ là hễ kén chọn quá lâu thì sẽ dở dang hay không mãn nguyện trong hôn nhân.
Ngay cả sách vở cũng lâm vào tình trạng bóp méo thành ngữ, tực ngữ chứ chẳng cứ gì dân gian mới bóp méo theo kiểu đó. Nguyễn Lân, chẳng hạn, đã ghi nhận câu «áo cứ chàng, làng cứ xã» và giảng như sau: «(Xã là chức dịch trong làng). Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của những người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình.» Thật là chuyện quá đỗi bất ngờ khi mà một quyển từ điển lại có thể viết sai chính tả và giảng sai nghĩa đến thế: hình thức chính xác của câu đang xét là «áo cứ tràng, làng cứ xã». «Tràng» có nghĩa gốc là cái cổ áo, nay được hiểu là cái vạt trước của chiếc áo dài. (Tục ngữ còn có câu «áo rách phải giữ lấy tràng» mà chính Nguyễn Lân cũng đã có ghi nhận.) Cái tràng áo đã bị Nguyễn Lân hiểu thành đức lang quân («chàng»!) nên «nàng» mới mắc cái oan Thị Kính là hay ỷ lại vào đàn ông! Rồi dân làng cũng mắc phải vạ lây mà bị quy là không biết phát huy quyền làm chủ ở nông thôn. Câu tục ngữ đang xét thực ra chỉ muốn nhấn mạnh vào vai trò và trách nhiệm của chức danh «xã» đối với địa phương do mình cai quản mà thôi. Cái được ám chỉ ở đây là trách nhiệm của cá nhân chứ không phải là quyền làm chủ tập thể.
Quá trình thực tiễn các thành ngữ du nhập vào nước ta được đọc theo âm Việt đã đem lại sự phong phú cho ngôn ngữ nhưng trải qua thời gian thực tế thì các thành ngữ đó đã ngày cành bị mai một bị biến đổi không đúng ý nghĩa của nó, cấu trúc sử dụng sai.nên việc nghiên cứu các thành ngữ Hán - Việt (cấu trúc) là điều bức thiết hiện nay.
II. Cấu trúc chuyên đề
Phần mở đầu
Phần nội dung
I . Cơ sở khoa học của chuyên đề
II. Cấu trúc chuyên đề
III. Nội dung
Vài nét khái quát về thành nhữ Hán - Việt
Cấu trúc thành ngữ Hán - Việt
Đặc điểm cấu trúc thành ngữ Hán - Việt
Đề xuất một số Ý kiến
Kết luận
Tài liệu tham khảo
III. Nội dung cụ thể
1. Vài nét khái quát về thành ngữ Hán - Việt
Thành ngữ Hán - Việt phong phú và đa dạng ,chúng phong phú ở chỗ có hàng nghìn thành ngữ Hán - Việt từ xưa đến nay đã góp phần làm phong phú vào kho tang ngôn ngữ dân tộc.
Thành ngữ Hán - Việt đa dạng ở chỗ có nhiều cách cấu tạo như về số lượng chữ, về thể loại, về nguồn gốc ra đời gắn liền với các điển tích điển cố
Nên khi muốn tìm hiểu thành ngữ Hán - Việt thì phải dựa trên các yếu tố sau:
Nguồn gốc hình thành
Thành ngữ Hán - Việt có nguồn gốc từ Trung Hoa do vị trí địa lý, do quá trình tiếp biến văn hóa thì được du nhập vào Việt Nam ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status