Tiểu luận Sự phát triển về chế định Chủ tịch nước từ năm 1946 cho đến năm 1992 qua các bản hiến pháp - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Sự phát triển về chế định Chủ tịch nước từ năm 1946 cho đến năm 1992 qua các bản hiến pháp



Việc quy định cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế và đối trọng quyền lực (cơ chế phân quyền), còn ở nước ta giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn đề là ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh - một loại văn bản có tính chất luật - lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần thận trọng. Sự tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một cách chính xác nhất.
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật, công bố hay đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39749/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

t hiện của một thể chế mới, đó là thể chế nguyên thủ quốc gia. Như vậy, về cơ bản thiết chế nguyên thủ quốc gia của các nước trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa trên thiết chế của nhà nước tư sản. Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thỏa hiệp giai cấp tại các nước tư bản.
Đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp. Tại một số nước XHCN khác do truyền thống lịch sử của mình, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước, thì chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Sự hiện diện các biểu hiện “nguyên thủ quốc gia” trong cơ chế nhà nước XHCN phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính chất long trọng, hình thức và chừng mực nhất định, để phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ chế nhà nước. Vị trí thứ hai này của “nguyên thủ quốc gia” xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tùy thuộc vào từng nước.
Trong cơ chế nhà nước ta như đã nói ở trên, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Do đó, trước hết ta sẽ có cái nhìn tổng quát về quá trình phát triển của chế định chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp 1946, 1959 và 1980 để thấy được những điểm tiến bộ về chế định này của bản hiến pháp hiện hành – Hiến pháp 1992.
II. Sự phát triển về chế định Chủ tịch nước từ năm 1946 cho đến năm 1992 qua các bản hiến pháp
Hiến pháp 1946 đã xây dựng mô hình bộ máy nhà nước có nhiều điểm mới so với trước đó. Đó là việc thành lập nghị viện nhân dân. Chính phủ với thành phần chủ tịch nước và nội các. Đặc biệt, vị trí của chủ tịch nước được thiết kế xây dựng độc đáo, xuất phát từ việc xây dựng bộ máy nhà nước đoàn kết một lòng, đáp ứng đúng yêu cầu thực tế đề ra.
Tính chất của Chủ tịch nước 1946, không có qui định định nghĩa về chế định này. Song qua cách thức và thẩm quyền thì Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước và đồng thời đứng đầu Chính phủ.
Vị trí của Chủ tịch nước năm 1946 theo HP qui định có quyền lực rất lớn được so sánh giống như Tổng thống ở các nước CH tổng thống tư sản. Song tổng thống ở các nước cộng hòa tổng thống do nhân dân bầu lên và chính phủ do tổng thống đứng đầu không chịu trách nhiệm trước nghị viện. còn chủ tịch nước ta do nghị viện bầu ra, nội các trong chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện. Có lẽ, vị trí của chủ tịch nước mang dáng dấp của tổng thống ở các chính thể cộng hòa hỗn hợp được thiết lập ở nhiều nước trên thế giới sau này (bắt đầu từ Pháp – HIến pháp 1958 sau đến 1 vànước khác như Hàn Quốc…) Tuy nhiên, chính thể nhà nước ta là CH dân chủ nhân dân thì không thể và không nên gán ghép với chính thể nhà nước tư sản. Trên thực tế, Hp1946 cũng qui định những mặt hạn chế đối với Chủ tịch nước, bảo đảm tính quyền lực cao nhất thuộc về Nghị viện (Quốc Hội). Đó là Nghị viện bầu ra Chủ tịch nước, chuẩn y các hiệp ước do Chính phủ kí với nước ngoài, trong tình trạng chiến tranh chủ tịch nước quyết định tình trạng chiến tranh hay đình chiến dựa vào những quyết định của nghị viện, ban thường vụ.
Tóm lại, chế định chủ tịch nước - nguyên thủ quốc gia được Hiến pháp 1946 xây dựng khá độc đáo. Nó vừa đảm bảo được tính thống nhất vào cơ quan thay mặt quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân, vừa đảm bảo tăng cường quyền hạn cho Chính phủ điều hành công việc quốc gia mạnh mẽ và hiệu quả phù hợp với yêu cầu kháng chiến, kiến quốc lúc bấy giờ.
Hiến pháp 1959, bộ máy nhà nước chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được áp dụng mạnh mẽ, theo đó QH là cơ quan quyền lực cao nhất, thống nhất quyền hành pháp, tư pháp, lập pháp. Các cơ quan khác lập ra được QH lập ra, phân giao nhiệm vụ, quyền hạn và chịu sự giám sát trách nhiệm trước Qh lẽ đương nhiên nắm cả quyền nguyên thủ. Song khác với các nước dân chủ nhân dân Đông Âu khi chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa thì đồng thời xóa luôn chế định nguyên thủ quốc gia, ở nước ta Chủ tịch nước vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng được tổ chức lại cho phù hợp. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, cùng với Quốc hội san sẻ chức năng nguyên thủ quốc gia, điều phối các cơ quan cấp cao trong bộ máy nhà nước.
Về tính chất, Chủ tịch nước là người thay mặt nhà nước trong lĩnh vực đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước mà không còn là người đứng đầu Chính Phủ. Sự phân chia quyền lực đã điều mới. Mọi quyền lực đều thuộc về Quốc hội. Chủ tịch nước lúc này chủ yếu thực hiện các công việc mang tính chất đại diện, cá nhân, tham gia vào việc lập pháp, thành lập các cơ quan nhà nước, tặng thưởng huân huy chương, tuyên bố chiến tranh…đều dựa trên quyết định cuối cùng của Quốc hội hay của UBTVQH ( Ủy ban thường vụ quốc hội).
Chủ tịch nước do QH bầu và chịu trách nhiệm trước QH, đây là một điểm mới so với HP 1946, nhiệm kì là 4 năm.
Tất cả những điều trên cho thấy HP1959, vị trí của Chủ tịch nước gắn bó hơn với QH, và điều này phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quyền lực của Chủ tịch nước đã bị hạn chế hơn nhưng vẫn có vai trò khá lớn với Hội đồng Chính phủ (chính phủ) như Chủ tịch nước đề nghị Thủ tướng để Quốc hội quyết định, căn cứ vào quyết định của QH, UBTVQH mà bổ nhiệm, bãi nhiệm thủ tướng, phó thủ tướng và các thành viên khác trong hội đồng Chính phủ, khi cần thiết có quyền tham gia và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Đây là điểm kế thừa vị trí của Chủ tịch nước đối với chính phủ ở bản HP 1946.
Tại Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước được thay thế bằng chế độ chủ tịch tập thể dưới hình thức Hội đòng nhà nước . Đây là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung của các nhà nước xã hội chủ nghĩa mà ở đó nguyên tắc tập quy

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status