Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế - pdf 14

Download miễn phí Luận văn Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế



Chữ Hán đã chính thức cáo chung ở Việt Nam ta hơn 60 năm và cho đến tận ngày nay, dường như không mấy người còn biết đến thứ chữ đã gắn liền với cả dân tộc suốt chặng đường ngàn năm lịch sử ấy. Dù sự ra đi của nó là điều chắc chắn phải xảy ra và phù hợp với xu thế của thời đại. Nhưng nói như thế không có nghĩa là chữ Hán hoàn toàn biến mất mà ngược lại, hình ảnh của nó lại xuất hiện khắp nơi nơi, từ chốn làng quê cho đến nơi đô thị. Ngày nay, chúng ta không còn dùng chữ Hán như một thứ chữ viết chính thức trong tất cả các văn bản khoa học nhưng chữ Hán vẫn là thứ chữ chính thức ở lĩnh vực tâm linh tín ngưỡng thể hiện trên các công trình kiến trúc văn hóa truyền thống. Nếu như ở phương tây, những bức vẽ của các danh họa nổi tiếng là phần không thể thiếu của nghệ thuật kiến trúc tôn giáo thì ở nước ta nói riêng và các nước thuộc vòng văn hóa Trung Hoa nói chung thì thứ không thể không nhắc tới đó chính là chữ Hán.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

Lê, là vợ cả, hiệu là Từ Huệ quý nương.
(Tôn tạo lại ngày mồng 8 tháng giêng đầu xuân Nhâm Ngọ.
Hai họ Lê Trọng Văn Đắc Bá Thúc Quý ở hai xã Thanh Thủy Chánh, Thượng cùng phụng cúng. Hiếu tử đời thứ nhất tước Hoằng Cung hầu, là thuỷ tổ khai canh Lê Cơ bái lập)
Nhà bia







Lê Bá Thúc Quý tộc đắc văn
宏恭侯碑亭
海德山功
Hoằng Cung hầu bi đình Hải đức sơn công
Nhà bia Hoằng Cung hầu Công đức như biển núi
端肅尊神
飲河思源
Đoan Túc tôn thần Ẩm hà tư nguyên
Đoan túc tôn thần Uống nước nhớ nguồn
Văn bia
黎仲文得伯叔季族始祖墓碑記
我黎族原貫中國陝西京兆郡累世定居越南而族普不詳載獨書我始祖長於黎朝英宗皇帝西歷一五五七年因避莫氏而入乂安歡演處始祖諱奇謚純雅其父剛鐵謚正直其母慈惠貴娘蓋黎朝武將後隨太祖嘉裕皇帝南歸而滅莫氏立多勳功順化平定以後祖察其地景色宜人可為安居建業之所乃昭募流民墾荒築邑變為稠密之處此清泉社富榮縣師魯總溫泉處今香水縣清水正社也雖武將出親曾為該隊累昇指揮使都指揮使又追封弘恭侯輔國上將軍然務墾殖之事而死後獲贈端肅尊神置祀田以封孫及上下清水而二社之民奉祀初只數子女四男一其子孫乃日益繁盛成社中大族及黎景興年間西歷一七四二年族分為兩支其一猶居其所其一入居水陽社於子孫與社民祖之恩澤甚大永刻心中詩經蓼莪曰欲報之德昊天罔極謂先祖之功難報矣為子孫我等宜篤志務孝同心一致保衛其德行而光宗耀祖以我族日益昌盛可報先祖恩德之一而與他族並行以國家增輝也
祠堂慶成大修紀念之禮
庚辰年陸月壹玖日
黎伯叔季家族委會謹啟
第拾肆傳子孫
原本族族長黎季覺官員子
原本族族長黎季体員子
同奉供碑與亭
Lê Trọng, Văn , Đắc, Bá, Thúc, Quý tộc thủy tổ mộ bi kí
Ngã Lê tộc nguyên quán Trung Quốc, Thiểm Tây, Kinh Triệu quận, lũy thế định cư Việt Nam nhi tộc phổ bất tường tái, độc thư ngã thủy tổ trưởng ư Lê triều Anh Tông hoàng đế Tây lịch nhất ngũ ngũ thất niên nhân tị Mạc thị chi loạn nhi nhập Nghệ An Hoan Diễn xứ. Thủy tổ húy Kỳ, thụy Thuần Nhã. Kỳ phụ Cương Thiết thụy Chính Trực, kỳ mẫu Từ Huệ quý nương ; cái Lê triều võ tướng, hậu tùy Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế nam quy, nhi diệt Mạc thị, lập đa huân công. Thuận Hóa bình định dĩ hậu, tổ sát kỳ địa cảnh sắc nghi nhân khả vi an cư kiến nghiệp chi sở, nãi chiêu mộ lưu dân, khẩn hoang trúc ấp biến vi trù mật chi xứ. Thử Thanh Tuyền xã, Phú Vang huyện, Sư Lỗ tổng, Ôn Tuyền xứ, kim Hương Thủy huyện, Thanh Thủy Chính xã dã. Tuy võ tướng xuất thân tằng vi cai đội, lũy thăng Chỉ huy sứ Đô chỉ huy sứ, hựu truy phong Hoằng Cung hầu, phụ quốc thượng tướng quân, nhiên vụ khẩn thực chi sự. Nhi tử hậu hoạch tặng Đoan Túc tôn thần, trí tự điền dĩ phong tôn, cập Thượng, Hạ Thanh Thủy nhị xã chi dân phụng tự. Sơ chỉ sổ tử nữ: tứ nam: nhất kì tử tôn nãi nhật ích phồn thịnh thành xã trung đại tộc. Cập Lê Cảnh Hưng niên gian, Tây lịch nhất thất tứ nhị niên, tộc phân vi lưỡng chi: Kỳ nhất do cư kỳ sở, kỳ nhất nhập cư Thủy Dương xã. Ư tử tôn dữ xã dân, tổ chi ân trạch thậm đại, vĩnh khắc tâm trung. Thi kinh Lục Nga viết: “Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”, vị tiên tổ chi công nan báo hỹ. Vi tử tôn ngã đẳng nghi đốc chí vụ hiếu, đồng tâm nhất trí bảo vệ kỳ đức hạnh, nhi quang tông diệu tổ ngã tộc nhật ích xương thịnh, khả báo tiên tổ ân đức chi nhất, nhi dữ tha tộc thịnh hành dĩ quốc gia tăng huy dã.
Từ đường khánh thành đại tu kỉ niệm chi lễ.
Canh Thìn niên lục nguyệt nhất cửu nhật.
Lê Bá Thúc Quý gia tộc ủy hội cẩn khải.
Đệ thập tứ truyền tử tôn.
Nguyên bản tộc tộc trưởng Lê Quý Giác, quan viên tử
Nguyên bản tộc tộc trưởng Lê Quý Thể, viên tử.
Đồng phụng cúng bi dữ đình.
Văn bia mộ ngài thủy tổ họ Lê Trọng, Văn , Đắc, Bá, Thúc, Quý
Họ Lê ta vốn quê quán ở quận Kinh Triệu, Thiểm Tây, nước Trung Quốc, nhiều đời định cư ở Việt Nam, nhưng gia phả dòng họ ghi chép không rõ rang, đọc sách thì thì thấy ngài thủy tổ lớn lên vào thời vua Anh Tông triều Lê, Tây lịch năm 1557, vì tránh loạn họ Mạc nên vào xứ Hoan Diễn Nghệ An. Thủy tổ húy Kỳ, thụy Thuần Nhã. Thân phụ húy Cương Thiết, thụy Chánh Trực, thân mẫu thụy Từ Huệ quý nương. Vốn là tướng võ triều Lê sau theo Thái tổ Gia Dụ hoàng đế nam tiến diệt Mạc lập nhiều công lao, sau khi Thuận Hóa được bình định ngài xét thấy mảnh đất này cảnh sắc phù hợp con người có thể an cư lạc nghiệp, bèn vời tuyển lưu dân khẩn hoang lập ấp biến thành nơi đông đúc. Đó là xứ Ôn Tuyền, tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang, tức là làng Thanh Tuyền, nay chính là làng Thanh Thủy Chánh, huyện Hương Thủy. Tuy xuất thân tướng võ từng làm cai đội, thăng dần lên chức chỉ huy sứ đô chỉ huy sứ, lại truy phong làm Hoằng Cung hầu Phụ quốc thượng tướng quân nhưng chăm việc khẩn hoang trồng dựng. Sau khi mất được tặng là Đoan Túc tôn thần, đặt tự điền để phong cho con cháu. Và dân hai xã Thượng Thanh Thủy, Hạ Thanh Thủy thờ phụng. Lúc đầu chỉ có mấy người con: bốn trai một gái, con cháu của một trong số đó ngày càng phồn thịnh trở thành một họ lớn trong xã. Đến đời vua Lê Cảnh Hưng, Tây lịch 1742, dòng họ chia làm hai nhánh, một nhánh vẫn ở chỗ cũ, một nhập vào xã Thủy Dương. Đối với con cháu và xã dân thì ơn đức của ngài là rất lớn lao, mãi mãi ghi nhớ trong lòng. Thiên Lục Nga trong Kinh Thi có câu: “Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực” (muốn báo công đức, trời cao vô bờ), ý nói công lao của tổ tiên khó mà báo đáp được. Là con cháu, chúng ta nên dốc chí chăm hiếu, đồng lòng nhất trí giữ gìn đức hạnh của mình và làm rạng rỡ tổ tông, để dòng họ ta ngày càng phát triển., có thể báo đáp ơn đức của tổ tiên trong muôn một và cùng tiến lên cùng với các dòng họ khác để nước nhà thêm tươi sáng vậy.
Lễ kỉ niệm khánh thành đại trùng tu nhà thờ.
Ngày 19 tháng 6 năm Canh Thìn (2000).
Hội đồng gia tộc họ Lê Bá, Thúc, Quý kính cẩn tâu bày.
Con cháu đời thứ 14:
Nguyên trưởng tộc bản tộc Lê Quý Giác, quan viên tử.
Nguyên trưởng bản tộc Lê Quý Thể, viên tử, cùng phụng cúng bia và nhà bia.
(Nhận thức về quê quán này là ngộ nhận theo "Bách tính quận danh" của sách Nho ngày xưa. Mỗi họ của người Trung Hoa (người Hán) được dùng một biệt danh của một quận, đối với người Hoa, có thể có ý nghĩa về nguồn cội. Người Việt đã bắt chước theo để ghi trong văn sớ, bài vị, dẫn tới nhầm lẫn của một số người cho đó là quê quán. Thật ra họ Lê này gốc từ Nghệ An, vào định cư tại làng Thanh Tuyền từ năm 1472 sau cuộc nam chinh của Lê Thánh Tông chứ không phải thời Lê Anh Tông và Nguyễn Hoàng như trong văn bia đã ngộ nhận. TĐV )
2.4.3. Nhà thờ họ Lê Diên
Tiền đường
流光
祖德
黎大尊
Lưu quang Lê đại tôn Tổ đức
Sáng soi truyền mãi Họ Lê đại tôn Đức của Tổ tiên
仰彌高鎖彌堅明德來也遠
左群昭右群穆祀事孔彰
Ngưỡng di cao, tỏa di kiên, minh đức lai dã viễn;
Tả quần chiêu, hựu quần mục, tự sự khổng chương.
Càng ngẩng trông càng thấy cao, càng khóa càng kiên cố, đức sáng tới từ xa;
Bên trái là hàng chiêu, bên phải thì hàng mục, việc thờ tự to lớn sáng tỏ.
前對高山千里風雲生錦色
後依清水...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status