Xây dựng một sốbài giảng trong chương Quang học-Vật lý lớp 9 theo các giai đoạn của phương pháp thực nghiệm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh - pdf 14

Download miễn phí Luận văn Xây dựng một sốbài giảng trong chương Quang học-Vật lý lớp 9 theo các giai đoạn của phương pháp thực nghiệm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh



Nối tiếp với chương trình quang học lớp 7, kiến thức vềsựkhúc xạ được trình bày ởlớp 9. Có lẽ
vì lí do toán học mà các tác giảchỉtrình bày vấn đềkhúc xạmột cách định tính (không phát biểu dưới
dạng định luật). Điều này cũng hợp lí. Vấn đềlà ởchỗviệc hình thành kiến thức ở đây cũng tiếp tục
hướng theo con đường thực nghiệm “thực tế, nhận xét và vận dụng vào thực tế”. Kiến thức vềlí thuyết ở đây không nhiều song có yêu cầu cao hơn vềnhận thức cũng nhưvận dụng. Có thểnói được nhưvậy là vì tia sáng bị“gãy” nhưng vẫn truyền liên tục qua các môi trường và truyền thẳng trong mỗi môi trường. Đối với HS lớp 9 thì đâylà vấn đềkhá trừu tượng và không dễ đểhiểu chúng. Bù lại, các thí nghiệm vềkhúc xạcũng nhưcác hiện tượng thực tế được đưa ra trong chương trình là rất dễquan sát, dễnhận xét. Ở đây, các em được rèn luyện thêm một kĩnăng đặc biệt trong quang hình học, đó là vẽtia sáng khúc xạ, mà cụthểlà vẽtia sáng qua thấu kính. Kĩnăng này khó nhưng cần thiết cho HS học quang học theo phương pháp thực nghiệm. Các vật được đưa vào ứng dụng là các máy móc quang học gần gũi. Có thểmột sốchưa bao giờtiếp xúc với máy ảnh, kính lúp song các vật dụng này không khó tìm đểtrực quan hóa cho bài học. Chắc chắn rằng các bài học sẽgây hứng thú trong quá trình học tập của các em và sẽhứng thú hơn, nếu dẫn dắt các em đi theo con đường thực nghiệm.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:


động học tập rất thiết thực cho các em (các hoạt động thí nghiệm).
Nếu chỉ cần đọc qua các cuốn SGK cấp THCS, cũng có thể thấy nhu cầu thực hiện TN trong
chương trình là khá nhiều. Không kể các bài TN thực hành, ở lớp 6 có 24 TN, lớp 7 có 24 TN, lớp 8 có
21 TN và lớp 9 có 38 TN lớn nhỏ. Ý đồ của các tác giả đã rất rõ về việc sử dụng TN ở cấp học “nhập
môn VL” này. Hầu hết các TN đều có thể thực hiện được tại lớp hay HS tự làm ở nhà. Vấn đề là ở
chỗ, làm thế nào tận dụng các TN (dù chỉ trong SGK) để phát huy hết tác dụng của ThNVL. Đã từ lâu,
nhiều nhà khoa học về LLDH VL (Ví dụ: ở Trường ĐHSP Hà Nội, Trường ĐH Cần Thơ…) đã nghiên
cứu và đưa vào giáo trình hướng dẫn cho SVSP VL tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có để làm các
ThNVL đơn giản, rèn luyện tư duy thực nghiệm và tăng cường các hoạt động HS trong và ngoài giờ
học. Gần đây, trong công trình luận văn tiến sĩ của mình, tác giả Nguyễn Văn Giang đã nghiên cứu
tổng hợp hai phương pháp “dạy học nêu và giải quyết vấn đề” và “phương pháp thực nghiệm” thành
một phương pháp đặc trưng riêng cho mình. Đây cũng là một sự tìm kiếm nhằm nâng cao hiệu quả của
các phương pháp sử dụng TN ở nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, cách làm này mang nhiều tính lí
thuyết và đòi hỏi GV phải soạn giảng khá công phu. Trong luận văn này, chúng tui muốn sử dụng
PPTN (ở trên đã sử dụng chữ viết tắt là PPThN cho các phương pháp thí nghiệm để phân biệt với chữ
PPTN – phương pháp thực nghiệm) nhưng không có ý đồ sử dụng trọn vẹn phương pháp này cho một
bài TN hay trong một tiết học vì nó khá phức tạp và đòi hỏi cao đối với HS cấp THCS. Ở phần tiếp
theo, chúng tui sẽ trình bày vấn đề này.
1.7. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VL
1.7.1. Từ Phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu VL đến các PPThN:
Aristot, nhà triết học thuộc nhóm các nhà bác học đầu tiên của loài người, rất uyên bác và đã có
những tác phẩm nghiên cứu về triết học tự nhiên đầu tiên làm nền tảng cho nhiều ngành khoa học sau
này của nhân loại. Tuy nhiên ông cũng để lại một số quan niệm sai lầm do một số quan điểm chính
thống về khoa học luận duy tâm của ông. Ví dụ ông cho rằng trí tuệ con người là chân lí (thực chất là
trí tuệ của ông). Nếu con người suy luận đúng thì tự nhiên sẽ là như vậy. Ông không nói đến một vấn
đề vô cùng quan trọng tiếp theo, đó là làm thí nghiệm kiểm tra những suy luận của mình. Trong các
công trình của mình hầu như mọi suy luận của ông đều rất đúng. Tuy nhiên sự ngộ nhận của ông khi
quan sát tự nhiên đôi khi đã để lại những kết luận rất đơn giản nhưng sai lầm. Ví dụ: Ông quan niệm
rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, lực làm cho vật chuyển động v..v..
Galile là người nghi ngờ học thuyết của Aristot. Ông cho rằng thế giới tồn tại tuân theo theo
những qui luật riêng của chúng chứ không tuân theo sự suy nghĩ đơn giản hay phức tạp của con người.
Theo ông, muốn hiểu tự nhiên không những phải quan sát trực tiếp, phán đoán, suy luận mà còn cần
phải làm TN kiểm tra các suy luận rồi mới có kết luận đúng đắn. Bắt đầu từ đó, ngành Vật lý thực
nghiệm ra đời. Hay nói khác đi, PPTN trong nghiên cứu Vật lý đã xây dựng nên toàn bộ bức tranh Vật
lý học cổ điển đẹp đẽ và vững chắc.
Spaski đã đưa ra các giai đoạn của PPTN trong nghiên cứu VL như sau[23]:
Giai đọan 1: Xây dựng giả thuyết (hay mô hình).
Xuất phát từ quan sát các hiện tượng mang tính qui luật trong thực tế, nhà khoa học nảy sinh ý
tưởng về bản chất chung nhưng chưa được chứng minh. Hay nói cách khác, một mô hình lí thuyết
được xây dựng một cách giả định (giả thuyết). Đây là một sự tinh túy về phẩm chất tư duy của các nhà
khoa học mà không phải ai cũng có được. Thông thường, các giả thuyết đưa ra là đúng vì nó dựa vào
sự suy nghĩ sâu sắc về bản chất các quá trình, tuy không có một con đường qui chuẩn nào để có được
nó. Vì vậy, các giả thuyết cần được chứng minh để trở thành chân lí. Có thể có nhiều giả thuyết
đưa ra để nhà khoa học chọn giả thuyết hợp lí nhất bằng cách từ đó có thể có các hệ quả có lí hay
không. Cho nên, để có được một giả thuyết, đa phần các nhà khoa học dựa vào trực giác của mình.
Giai đoạn 2: Từ giả thuyết suy ra hệ quả. Bằng phép suy luận logic hay bằng toán học, các nhà
khoa học có thể rút ra một hay một số kết luận để có thể kiểm tra bằng thực nghiệm. Việc suy luận để
đưa ra được các hệ quả tuy có vẻ mang tính “máy móc”(logic) nhưng không phải ở mức độ tri thức nào
cũng làm được. Đây là một bước đi rất khó, nó đòi hỏi không những kinh nghiệm nghiên cứu mà còn
một khả năng hiểu biết sâu, rộng các vấn đề VL và các thao tác các hoạt động tư duy, cấu trúc ngôn
ngữ mạnh mẽ của nhà khoa học.
Giai đọan 3: Làm thí nghiệm kiểm tra.
Giai đọan này sẽ khẳng định các kết quả suy luận, đồng nghĩa với việc khẳng định giả thuyết
(mô hình) đã đưa ra là đúng đắn. Vấn đề là ở chỗ làm sao thiết kế được TN này. Một thói quen tư duy
xen lẫn kinh nghiệm thực nghiệm mà người ta vẫn gọi là trực giác sẽ cho phép nhà khoa học tìm ra
phương án TN kiểm tra.
Giai đọan 4: Kết luận khẳng định giả thuyết.
Nếu kết quả TN cho thấy hệ quả là đúng thì những giả thuyết đề ra trước đó là đúng đắn và nó
sẽ là những qui luật của tự nhiên.
Như vậy, PPTN là phương pháp nhận thức sáng tạo trong nghiên cứu VL thực nghiệm. Qua các
giai đoạn trên cũng cho thấy rằng PPTN không phải chỉ là một “bài thí nghiệm đơn thuần”, một phép
qui nạp giản đơn mà là cả một quá trình phân tích sâu sắc các sự kiện quan sát được, khái quát các
nguyên nhân giả định, diễn dịch ra hệ quả và thiết kế TN kiểm tra.
Phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu Vật lí đã được các nhà LLDH VL vận dụng vào
dạy học từ rất lâu. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã kết hợp nó với phương pháp sư phạm nhằm làm dễ
dàng hơn cho GV khi dạy và cho HS khi nhận thức. Chủ yếu vẫn là “lấy thí nghiệm” làm phương tiện
để dạy nội dung VL. Đó là các PPThN như đã trình bày ở trên. Ngày nay, các nhà nghiên cứu sư phạm
không thỏa mãn với các mức độ tác dụng tích cực của các PPThN như ta bình bàn mà muốn có tác
dụng cao hơn đối với HS. Họ muốn đưa “hình mẫu” của phương pháp thực nghiệm VL vào nhà
trường, PPDH bằng thực nghiệm gọi tắt là phương pháp thực nghiệm (PPTN).
Theo Nguyễn Đức Thâm và nhiều tác giả, PPTN được diễn ra theo các bước như sau:
Thực tiễn,thí
nghiệm… làm
nẩy sinh vấn đề
cần nghiên cứu
(câu hỏi cần trả
lời)
Suy luận logic
từ giả thuyết ra
hệ quả kiểm
tra được bằng
thí nghiệm.
Vận dụng kiến thức
Đề xuất giả
thuyết
Kiểm tra hệ
quả bằng thí
nghiệm
Hình 1.8: Sơ đồ PPTN trong dạy học vật lý
Giải thích sơ đồ:
Giai đoạn 1: Làm xuất hiện vấn đề. GV mô tả một hoàn cảnh thực tiễn hay biểu diễn một vài
thí nghiệm và yêu cầu HS đoán diễn biến của hiện tượng, tìm nguyên...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status