Tiểu luận Phương thức mưu sinh của dân tộc Gia rai ở Việt Nam - pdf 14

Download miễn phí Tiểu luận cách mưu sinh của dân tộc Gia rai ở Việt Nam



MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu: Khái quát chung vấn đề nghiên cứu: 2
Phần hai: nội dung: 3
Chương I: Đặc điểm dân tộc Gia rai và môi trường tự nhiên. 3
Chương II: Hoạt động kinh tế. 5
1. Trồng trọt: 5
2. Chăn nuôi: 8
3. Các nghề phụ gia đình: 9
4. Kinh tế chiếm đoạt: 10
Chương III: Đời sống xã hội. 12
1. Quan hệ xã hội: 12
2. Quan hệ dòng họ: 15
3. Quan hệ hôn nhân và gia đình: 18
Phần ba: Kết luận: 19
Tài liệu tham khảo: 20
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung:

. Nước mưa đối với cư dân nông nghiệp vốn đã quí, đặc biệt với người Gia rai càng quí hơn. Nơi nào có nước mưa ứ đọng thành hồ, ao, chuôm, vũng, nơi đó thường biến thành khu trồng trọt trù phú. Đnao là tên chỉ những nơi trũng thấp và thường có nước đủ để con người có thể trồng trọt được ngoài ra, những vùng đất khác đều gọi chung là glai rưng – rừng, hay chử - núi. Đây vừa là đất làm nương theo kiểu phát đốt trồng tỉa vừa là vùng hoang vu.
Trước cách mạng, nông nghiệp dùng cuốc chiếm ưu thế trong đại bộ phận người Gia rai. Mặc dù việc thuần dưỡng gia súc, đặc biệt việc nuôi trâu có rất sớm, nhưng trâu ở đây vẫn chưa dùng làm sức kéo trong nông nghiệp.
Đồng bào đã biết phân chia đất đai ra làm hai loại. Đất không canh tác được gọi bằng các thuật ngữ: dế, tná, lơn. Đất trồng trọt được gọi là hma – một thuật ngữ vốn gốc chỉ riêng nương rẫy; nay đã được dùng chỉ cả ruộng đồng, vườn tược…Tùy từng đối tượng trồng trọt cụ thể mà có tên gọi riêng.
Hma mnai (moa dế, moa pú) là những khoảnh đất trồng trọt ở trạng thái nửa vườn, nửa nương thuộc quyền sở hữu của các gia đình. Ở thung lũng Cheo Leo, loại đất này tập trung vào giải ven sông Ia Yun và Ia Pa bằng phẳng. Tuy nhiên, những mảnh đất này vẫn ở địa thế cao chưa biến thành ruộng nước để trồng lúa được.
Hma mnai còn tương ứng với dang là vườn, đồng bào ở quanh thị xã Plây Cu đã có loại đang gá sang (vườn quanh nhà).
Trên các thửa hma mnai dang. Người ta trồng các loại cây ăn quả: chuối, mít, dứa, đu đủ, mía, rau xanh, vừng, cà, tỏi, hành, bầu bí…cây có chất bột: khoai lang, mạch, ý dĩ, sẵn, kê, kê chân vịt (gao)…Ở quanh vùng Ayun Pa người ta còn trồng bắp. Nếu ở ven sông hay soi bãi, đồi thì trồng lúa sớm xen với bắp.
Hma rưng (hma ró). Thuật ngữ rưng có nghĩa là rừng. Mảnh đất nào đang trồng lúa thì gọi là hma hay hma rưng. Khi bỏ hóa người ta gọi mảnh đất đó là hma ksor. Cũng như việc làm nương rẫy ở các dân tộc miền núi khác, khi tiến hành làm hma bao giờ cũng bắt đầu bằng động tác phát, ngả cây rừng, để cho khô nó rồi đốt. Sau đó tiến hành dọn, cuốc, xới đất chờ mưa xuống thì gieo trồng. Ở người Gia rai rẫy thường chỉ làm hai vụ rồi bỏ hóa. Rẫy làm năm đầu gọi là hma tna chưa cuốc xới. Từ năm thứ hai trở đi nếu vẫn trồng trọt, đất đều gọi là hma pú (a pú) hay hma dir. Ở đây khâu cuốc đất mới được xem trọng. Chu kỳ bỏ hóa khoảng từ 8 – 12 năm. Sau khi rừng tái sinh chủ rẫy bắt đầu trở lại canh tác.
Hma đnao và hma ia – đnao là nơi thấp có nước đọng thành ao, chuôm, đầm nước có lau lách mọc. Hma đnao là ruộng được khai phá từ các đầm lầy, quanh năm có nước. Hma ia là ruộng được tạo ra bởi những mảnh rẫy lâu năm ở vùng đất trũng. Bình thường hma ia không có nước, trời mưa xuống nước đọng lúc đó việc canh tác mới bắt đầu làm được. Đồng bào còn gọi là na (hma na) – một từ có gốc Tày – Thái.
Hma đnao (ia) là đất chuyên canh lúa. Hiện nay người ta đã dần dần chuyển nó thành ruộng nước, làm cơ sở sản xuất vững chắc cho công cuộc định canh, định cư.
Vì đất hma rất phức tạp nên người ta phải làm nhiều loại cuốc khác nhau.
Vùng hma rưng thường có nhiều gốc cây cụt và đá nên phải sử dụng knông, một loại cuốc cầm một tay, hẹp bản (6 cm), nhưng lại dài (20 cm), có tác dụng xới đất xen đá và gốc cây, có nhiều khe kẽ hiểm hóc.
Khi chỉ cần xới cỏ, cuốc sơ đất, không đòi hỏi tới độ sâu thì dùng chông, một loại cuốc nhỏ cầm một tay, dùng rất phổ biến ở hầu khắp vùng Tây Nguyên.
Làm cỏ ở vùng đất có độ dốc cao thì dùng knor. Có thể gọi đây là một thứ cuốc giẫy cỏ làm bằng một miếng sắt đánh bẹt đầu tựa con dao rựa, vuốt nhỏ thuôn đều về phía đuôi, rồi uốn cho quẹo và tra vào cán tre hay gỗ. Đây là loại công cụ rất phổ biến ở hầu khắp cư dân nương rẫy ở nước ta.
Dọn cỏ, dùng cào để kéo chất thành đống rồi đốt. Ở một số vùng Gia rai, chiếc cào không giống các loại thông thường ta vẫn thấy. Nó là một loại công cụ làm bằng gỗ có ba răng. Khi dọn cỏ nương, người ta cũng cầm cào một tay như cuốc để cào (hsar) và xới (chố).
Cuốc bàn là một loại công cụ dùng rất phổ biến. Đồng bào gọi là chong (achong). Đối với đất bằng như hma mnai, hma đnao, hma ia thường chỉ thấy cuốc bàn.
Xưa kia, vì không kiếm được cuốc lưới sắt, đồng bào đã dùng xương bả vai trâu, đem đẽo gọt tạo ra chuôi cầm làm cuốc.
Cung như các cư dân khác sống ở vùng núi Tây Nguyên, đồng bào dùng các loại dao: rbóc, tgạ và rìu (giông) để phát nương rẫy. Động tác chọc lỗ, gieo hạt ở người Gia rai cũng khác với nhiều dân tộc khác. Đàn ông cầm hai chiếc gậy vót nhọn chọc lỗ với một động tác liên tiếp khá nhanh. Chọc hết lượt khắp vùng đất trồng rồi mới lấy hạt giống đã bỏ sẵn vào ống nứa, dốc ra tay tra xuống lỗ. Đến mùa thu hoạch, phổ biến vẫn là động tác suốt từng bông bằng đôi bàn tay trai cứng của mình. Họ tuốt lúa bỏ vào gùi quẩy về nhập kho (hgiai pđai), dựng ngay cạnh hma. Nay ở một số nơi, đồng bào đã dùng liềm.
Giống lúa đã có hàng chục loại thích nghi với từng vùng khí hậu và loại đất. Thóc tẻ (pđai), lương thực chính của họ, có các loại: mching, blá, bla, cham, diênh, han, ptoanh, pdô…trừ một số nơi làm ruộng nước, người ta gieo mạ cấy lúa, còn thường vẫn gieo thẳng. Năng suất lúa ở đây khá cao. Ngoài lúa tẻ , đồng bào còn gieo trồng lúa nếp (pđai nhar) ngô, bo bo (pđai brếch), sẵn.
Để có thể chủ động trong sản xuất và sinh hoạt, đồng bào đã định ra được lịch nông nghiệp. Xu thế làm ăn theo dương lịch hiện nay đang ngày càng phổ biến. Tuy nhiên người Gia rai vẫn chưa quên lịch tính theo chu kỳ sản xuất và sinh hoạt riêng của mình. Tháng giêng bắt đầu tính từ những ngày có giọt mưa rơi trên mặt đất, bắt đầu sau tháng khô hanh. Đó cũng là lúc những hạt giống đầu tiên của vụ sản xuất được gieo xuống vùng hma.
Nhìn trên lịch ta thấy công việc sản xuất của đồng bào khá khẩn trương, đòi hỏi phải tăng cường độ lao động trong những tháng cần thiết để kịp thời vụ. Ở đây họ lấy khâu trồng tỉa làm mốc để định ra ngày mở đầu của vụ sản xuất. Các công việc đồng áng phải dồn vào mùa khô (từ tháng 7 đến tháng 11 theo lịch Gia rai). Trước khi bước vào hai tháng 11, 12 để nghỉ ngơi , mọi việc sản xuất được coi như đã hoàn tất vừa thu hoạch xong vụ mùa, lại chuẩn bị được đất đai cho vụ tới. Tháng 12 mang tên blan vơr (tháng quên) “quên” cầm cuốc, rìu, rựa; “quên những ngày tháng lao động.
Trồng trọt là ngành kinh tế chủ yếu, nhưng không phải duy nhất. Do những nhu cầu cần thiết của cuộc sống con người đã phải mở rộng nhiều hoạt động kinh tế khác. Về mặt này ta thấy ở người Gia rai đã nổi lên những nét đặc biệt trên các lĩnh vực: chăn nuôi, nghề phụ gia đình và săn bắn.
2. Chăn nuôi:
Chăn nuôi gia đình là một trong những ngành hoạt động kinh tế phát triển rất sớm ở người Gia rai. Họ nuôi khá nhiều gia súc, trong đó có: trâu, bò, ngựa, voi, lợn, gà…
Trâu nuôi để phục ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status