Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm về nguồn gốc, bản chất của tội phạm và ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó - pdf 14

Download miễn phí Tiểu luận Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm về nguồn gốc, bản chất của tội phạm và ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó



Mục lục
1. Lời mở đầu
2. Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm (cổ điển) về nguồn gốc, bản chất của tội phạm.
2.1. Quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm
2.2.Ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó
2.2.1. Vấn đề thứ nhất: Động cơ, mục đích, ý định phạm tội
2.2.2. Vấn đề thứ hai: Quyết định thực hiện hành vi phạm tội
2.2.3. Vấn đề cách thực hiện hành vi phạm tội:
2.2.4. Diễn biến tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội
2.2.4.2. Những nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
2.2.4.3. Một số cách người phạm tội thường dùng nhằm giải tỏa trạng thái tâm lý căng thẳng sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
4. Kết luận


1. Lời mở đầu
Tâm lý học pháp lý được hình thành vào cuối thế kỷ XVI – XVII ở phương Tây và bắt đầu phát triển mạnh mẽ vào XIX và đầu thế kỷ XX. Hầu hết các ngành tâm lý chuyên biệt: Tâm lý học nhận thức, Tâm lý học phát triển, Tâm lý học xã hội, Tâm lý học nghệ thuật, Tâm lý học quân sự, Tâm lý học tội phạm,Tâm lý học sáng tạo, Tâm lý học lao động, Tâm lý học trị liệu,Tâm lý học tư vấn, Tâm lý học kinh tế,.... Trong đó học thuyết của S.Phơrơt - cha đẻ của tâm lý học phân tâm và học thuyết của Watson – thay mặt cho tâm lý học hành vi có sự chi phối mạnh mẽ. Đặc biệt, những quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm là cơ sở để xác định nguồn gốc, bản nghiên cứu những quan điểm đó.
Vận dụng quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm, giữa thế kỷ XIX, Trezare Lômbôrơđơ là một trong những người đầu tiên thử giải thích bản chất của hành vi phạm tội dưới góc độ chủng tộc học. Đến nay, thuyết của ông vẫn được kế tục.
Còn đối với nước Đức, tâm lý học tư pháp đã được đặc biệt quan tâm và có sự phát triển mạnh hơn cả. Ở đây, lần đầu tiên người ta đã tiến hành tổng hợp theo kinh nghiệm tất cả những yếu tố liên quan đến đặc điểm tâm lý của hành vi phạm tội, nhân cách của người phạm tội và lới khai của người làm chứng. về hoạt động tư pháp và về nhân thân người phạm tội đã thúc đẩ sự phát triển của tâm lý họ pháp lý.
Vào những năm đầu của chính quyền Xô Viết, sự quan tâm của xã hội đến các vấn đề về hoạt động tư pháp và nhân thân người phạm tội đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tâm lý học tư pháp. Ngay từ những ngày đầu thành lập, nhà nước Xô Viết đã bắt đầu tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa tình trạng phạm tội và các cách thức để giáo dục, cải tạo và cảm hóa người vi phạm pháp luật.
Đối với Việt Nam, tâm lý học pháp lý là một chuyên ngành rất mới trong hệ thống khoa học tâm lý, tuy nhiên nó đã mang lại những tác dụng to lớn trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, đảm bảo sự công bằng trong hoạt động bảo vệ pháp luật và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm (cổ điển) về nguồn gốc, bản chất của tội phạm.
2.1. Quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm
Thuyết của S.Phơrơt cho rằng cấu trúc hành vi người được thúc đẩy bởi các thành tố cơ bản là ý thức-tiềm thức-vô thức, dựa trên cơ chế "thỏa mãn và dồn nén".
Khối vô thức là khối bản năng, trong đó bản năng tình dục giữ vị trí trung tâm. Khối vô thức là thùng năng lượng tâm thần chất chứa những khát vọng bản năng sôi sục, hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm đòi hỏi sự thoả mãn ngay lập tức những khát vọng bản năng. Vô thức là cái ngấm ngầm điều khiển, điều chỉnh hành vi con người.
Khối ý thức tương đương với cái “tôi”. Cái tui được hình thành do áp lực thực tại bên ngoài đến toàn bộ khối bản năng. Nó đảm bảo các chức năng tâm lý như chú ý, trí nhớ…Hoạt động của cái tui theo nguyên tắc thực tại. Nhiệm vụ của cái tui là làm cho cái bản năng thoả mãn mà không làm tổn hại đến cơ thể, làm giảm sự căng thẳng một cách tốt nhất.
Siêu tui là tổ chức bên trong bao gồm tất cả phạm trù xã hội, đạo đức, nghệ thuật, giáo dục. Siêu tui hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt.
Cả ba khối này theo nguyên tắc chung là ở trạng thái thăng bằng tương đối: Con người lúc ấy ở trạng thái bình thường. Nhưng cả ba khối này luôn luôn xung đột với nhau, sự xung đột này là cơ chế của hoạt động tâm thần.
Từ quan niệm như trên S.Phơrơt nêu ra cơ chế hoạt động tâm lý của con người. Đó là cơ chế kiểm duyệt, chèn ép, cơ chế biến dạng, cơ chế siêu thăng, cơ chế suy thoái.
Con người sống gồm các bản năng. Xu hướng của các bản năng này là luôn vươn lên chiếm đoạt những cái khác (cái tui và siêu tôi). Nhưng cái bản năng luôn bị sự chèn ép, kiểm duyệt của cái tôi. Do đó, nó phải biến dạng bằng một hình thức nào đó như bệnh tâm thần, hay tìm cách giải tỏa như hành vi phạm tội.
Cái siêu tui thể hiện ở sự dạy dỗ, quy định của bố mẹ, thể hiện trong truyền thống của thế hệ trước truyền lại. Cơ chế tâm lý của việc hình thành siêu tui là sự đồng nhất hoá - cá nhân đồng nhất với cha mẹ và những người giáo dục.
Học thuyết phân tâm của S. Phơrơt: đã đưa ra giả thuyết về vô thức tiềm thức là những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý của con người. S. Phơrơt đã khám phá một thế giới vô thức mà trước đây chưa được khám phá. Mặt khác, đóng góp của S. Phơrơt còn ở chỗ đưa ra một số cơ chế tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén, mặc cảm, đồng nhất hoá, các giai đoạn phát triển nhân cách. Từ những quan điểm trên, có thể đánh giá một người có phạm tội hay không, động cơ, mục đích phạm tội,…
Trên cơ sở học thuyết của S. Phơrơt, một vài lý thuyết tâm lý học cho rằng tội ác là kết quả của thiểu năng nhân cách. Thiểu năng nhân cách có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, từ việc học tập quá sức đến những tổn thương tâm lý từ thuở nhỏ... Khi tiến hành nghiên cứu ở những tên giết người hàng loạt khét tiếng như Ted Bundy hay Jeffrey Dahmer, người ta phát hiện thấy đa số chúng đều phải chịu những biến cố tâm lý từ lúc nhỏ với nhiều dạng và cấp độ khác nhau. Chúng đều là những kẻ tâm thần mang những nhân cách chống xã hội. Chúng không thể biết mình bị thiểu năng và luôn cảm giác bị xã hội quấy rầy. Mức độ của những ám ảnh vô hình ngày càng tăng và đến một thời điểm nhất định kẻ mắc bệnh sẽ có những hành động mang tính bạo lực nhằm giải tỏa sự ức chế đó. Do đó, dựa trên quan điểm này, các nhà tội phạm học phân biệt ranh giới giữa bệnh nhân tâm thần và tội phạm.
Nếu tâm lý phân tâm lấy điều kiện bên trong làm nguyên tắc quyết định thì tâm lý học hành vi lại lấy điều kiện bên ngoài quyết định cho tâm lý con người. Những cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa hành vi do Watson xây dựng lên, đã thể hiện rất rõ điều ấy qua các nội dung cụ thể:
Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả, giảng giải các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người, đối tượng của tâm lý học hành vi là hành vi con người. Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài.
Theo Watson có 4 loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên trong, hành vi tự động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Theo ông, mọi việc con người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn loại hành vi này. Nghiên cứu dùng các phương pháp khoa học khách quan, sử dụng phương pháp ghi chép các sự kiện kiểm soát được về quá trình cơ thể, thích nghi với môi trư...


Xem down tài liệu tại đây nhé
Qes53BKS6SYL34I
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status